Giáp Văn Dương
Việt Nam là quốc gia ven biển, theo nghĩa có hơn 3000 km đường
bờ biển trải dài từ Bắc chí Nam. Nhưng Việt Nam có văn hóa biển hay
không vẫn là chủ đề còn bỏ ngỏ. Phảng phất đâu đó ở các vùng ven biển,
các sinh hoạt văn hóa của người dân đã có một số nét đặc trưng rất biển.
Nhưng nếu nói văn hóa biển đã được định hình ở những nơi này thì còn
phải rất thận trọng. Vì trong văn hóa biển, yếu tố quan trọng nhất là tư
duy biển chứ không phải là kiếm ăn từ biển.
Trong cách nhìn đó, để tránh sa vào sự thiếu minh định của khái niệm
văn hóa biển, sẽ có ích hơn khi xem xét một khái niệm tương tự nhưng có
nội hàm cô đọng và rõ ràng hơn: văn hóa đại dương. Ở đây, văn hóa đại
dương sẽ được hiểu như là những đặc trưng văn hóa xuất hiện do các hoạt
động của con người trên các đại dương. Theo cách nhìn này, có thể khẳng
định: Việt Nam không có văn hóa đại dương. Lý do là cho đến tận ngày
nay, người Việt Nam vẫn chưa có các hoạt động thường xuyên, có hệ thống
trên các đại dương đủ lâu với cường độ đủ lớn để hình thành nên một đặc
trưng văn hóa.
Sự kiện Việt Nam là quốc gia ven biển, nhưng lại không có văn hóa đại
dương, suy cho cùng cũng không phải là điều gì đáng xấu hổ. Trên thế
giới, có rất nhiều nước ven biển, nhưng số nước có văn hóa đại dương chỉ
đếm trên đầu ngón tay. Đó là những cường quốc biển, có các đội tàu đủ
lớn mạnh và đội ngũ thủy thủ đủ kỹ năng để hoạt động dài ngày trên các
đại dương. Những cường quốc biển này, theo truyền thống, chỉ bao gồm một
số nước châu Âu như Anh, Tây Ban Nha… Cho đến thế kỷ XIX, không có nước
nào ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc là cường quốc biển. Trong số
đó, có rất nhiều nước ở ngay giữa biển cũng không có văn hóa đại dương,
vì chỉ tập trung đánh bắt hải sản ven bờ mà không thể vươn ra chiếm lĩnh
các vùng khơi xa. Ngoài các cường quốc biển truyền thống này, chỉ đến
thời gian gần đây hơn mới có thêm một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc
trở thành cường quốc biển.
Những nước này đều là cường quốc về kinh tế, văn hóa và khoa học công
nghệ. Vì thế, trong niềm kỳ vọng về sự phát triển của đất nước, nhiều
người đã tìm đến văn hóa đại dương như một phương tiện để phát triển,
hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam thành cường quốc biển. Đó là một kỳ vọng
tốt đẹp. Tuy nhiên, với tinh thần “ôn cố tri tân”, bài viết này sẽ sơ
bộ tìm hiểu tại sao Việt Nam, dù nằm ngay sát biển và gần với một trong
những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất trên thế giới, lại đã không thể
trở thành cường quốc biển.
Vì sao Việt Nam đã không là cường quốc biển?
Việt Nam là một nước ven biển, nhưng Việt Nam đã không thể trở thành quốc gia biển. Tại sao?
Nếu nhìn lại lịch sử thì thấy rằng, cho đến những năm 1400, Việt Nam
cũng như mọi quốc gia khác, không thể trở thành cường quốc biển. Lý do
là khoa học kỹ thuật trên thế giới lúc đó chưa phát triển đủ để chế ra
những con tàu lớn có thể đi xuyên đại dương. Nhu cầu của các hoạt động
kinh tế, quân sự xuyên lục địa cũng chưa đủ để thúc đẩy các nước tăng
cường hoạt động của mình trên những vùng biển sâu vốn chứa nhiều nguy
hiểm.
Như vậy, cuộc đua trở thành cường quốc biển chỉ diễn ra trong khoảng
thời gian nhiều nhất là 600 năm trở lại đây. Việc Việt Nam có cơ hội trở
thành cường quốc biển hay không ắt hẳn cũng rơi vào khoảng thời gian
này. Vậy trong 600 năm vừa rồi, điều gì đã ngăn cản Việt Nam trở thành
cường quốc biển?
Tìm hiểu quá trình các nước vươn ra chiếm lĩnh đại dương thì thấy
rằng, việc trở thành cường quốc biển không thể là một sản phầm duy ý
chí, mà đòi hỏi phải thỏa mãn một tập hợp các điều kiện nhất định. Trong
số đó, quan trọng nhất là bốn yếu tố: i) vị trí địa lý; ii) đặc điểm
văn hóa và ý thức hệ chi phối; iii) sức mạnh kinh tế và kỹ nghệ; iv)
năng lực tổ chức và tham vọng của chính quyền.
Với vị trí địa lý, rõ ràng nếu một nước không ở gần biển thì sẽ rất
khó để phát triển thành cường quốc biển. Tiếc rằng, đây là điều kiện duy
nhất mà Việt Nam đáp ứng được ở mức độ cần thiết, tức là gần biển.
Những điều kiện còn lại, Việt Nam đã không thể thỏa mãn để có thể phát
triển thành cường quốc biển.
Lý do đầu tiên và quan trọng nhất, là cho đến tận ngày nay, Việt Nam
vẫn rập khuôn theo mô hình kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Trước đây,
do cùng ý thức hệ phong kiến Nho giáo, Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tâm
thức hướng vào lục địa, bám chặt vào đất của Trung Quốc. Vì Trung Quốc
không phải là cường quốc biển, nên hẳn nhiên Việt Nam rất khó thoát ra
khỏi mô hình gốc này để phát triển độc lập thành cường quốc biển.
Chính tư tưởng hướng về lục địa, coi mình là trung tâm của thế giới
của người Trung Quốc, đã ảnh hưởng xấu đến mô hình phát triển của các
nước chịu ảnh hưởng nặng về ý thức hệ Nho giáo xung quanh, trong đó có
Việt Nam. Hậu quả là trong suốt thời phong kiến, thay vì hướng ra biển
để hội nhập với thế giới, Việt Nam lại hướng về phương Bắc với tinh thần
bám chặt vào đất trong việc xây dựng mô hình kinh tế - xã hội của mình.
Đây chính là neo ý thức đã giữ chân người Việt không vươn ra được với
thế giới. Tệ hại hơn, các triều đình phong kiến Việt Nam cũng bắt chước
người Trung Quốc tự cho mình là văn minh hơn thế giới bên ngoài, nên đã
bế quan tỏa cảng, không chịu canh tân cải cách để phát triển đất nước.
Một số nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, dù là quốc gia ven biển hoặc
giữa biển, nhưng cũng không thể phát triển được thành cường quốc biển
cho đến khi bứt ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, với Nhật Bản từ giữa thế
kỷ XIX và Hàn Quốc nửa sau thế kỷ XX.
Lý do thứ hai là sức mạnh kinh tế và kỹ nghệ của Việt Nam chưa bao
giờ đủ lớn để phát triển các đội tàu chiến, thương thuyền lớn có thể
chinh phục đại dương. Cho đến thế kỷ XIV, người Việt Nam vẫn quanh quẩn
tập trung làm ăn ở vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là vùng đất trũng, nhỏ
hẹp, luôn bị thiên tai đe dọa nên người Việt đã không thể có đủ tích lũy
cần thiết làm tiền đề cho các chuyến viễn du, các hoạt động vươn ra
biển lớn. Quy mô dân số nhỏ cũng là một hạn chế trong việc tích lũy để
chinh phục thế giới bên ngoài. Ngay cả sau khi đã nam tiến khoảng hơn
200 năm về trước, diện tích và quy mô dân số của Việt Nam có tăng lên,
nhưng địa hình lại hẹp và dài từ bắc chí nam. Địa hình dài và hẹp này có
một ưu điểm là tạo ra đường bờ biển dài, nhưng lại có một nhược điểm
rất lớn là dàn trải trên một dải có nhiều cấu trúc địa hình và khí hậu
khác nhau, trong đó chủ yếu là đồi núi, dẫn đến hạn chế trong việc phát
triển nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác ở quy mô lớn. Ngoài ra,
đặc điểm dài và hẹp này cũng đã tạo ra tính cục bộ rất lớn trong các
hoạt động kinh tế - xã hội của các địa phương. Điều này góp phần kìm
chân người Việt Nam vươn ra biển vì nó trái ngược với tinh thần hội nhập
của văn hóa đại dương.
Điều đáng lưu ý là sau khi đã chinh phục đồng bằng sông Mekong thì
thói quen bám chặt đất từ ngoài Bắc chuyển vào, cộng với sự trù phú của
đồng bằng phía Nam, chắc hẳn cũng đã góp phần giữ chân người Việt đi xa
hơn ra biển cả.
Đến cuối thế kỷ XIX, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp nên không
chủ động được sự phát triển của mình. Sauk hi độc lập năm 1945, Việt Nam
lại trải qua ba cuộc chiến lớn, nên chưa khi nào có tích lũy kinh tế -
kỹ nghệ đủ mạnh để phát triển hải quân và những đội tàu lớn nhằm chiếm
lĩnh đại dương.
Việc coi thường thương nghiệp trong suốt thời phong kiến, với việc
xếp hạng thương nhân là tầng lớp thấp nhất trong xã hội, cũng ảnh hưởng
quyết định đến việc buôn bán trao đổi với nước ngoài. Sau khi giành độc
lập, tình hình cũng không khá hơn với chính sách “ngăn sông cấm chợ”.
Chính việc buôn bán thương mại quốc tế là một trong những động cơ lớn để
thúc đẩy các cường quốc châu Âu đóng các tàu hàng lớn và thăm dò khám
phá thế giới. Trong suốt lịch sử phát triển của mình, Việt Nam thiếu hẳn
động cơ này, nên không thể vươn ra biển dù ở ngay cạnh một trong những
tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất của thế giới.
Về mặt kỹ kỹ nghệ, việc tiến ra đại dương đòi hỏi một trình độ khoa
học công nghệ tương đối cao. Việt Nam nằm ở châu Á, nơi khoa học hiện
đại không phát triển, vì thế không thế đóng được các con tàu lớn để vươn
ra đại dương.
Còn nhớ, vua Minh Mạng nhà Nguyễn đã từng cho đóng tàu chiến bọc
đồng, nhưng sau đó không thể phát triển tiếp vì không có một nền móng
khoa học kỹ thuật và kinh tế đủ mạnh để hậu thuẫn. Các hoạt động quân sự
đương thời không đủ cường độ cần thiết để thúc đẩy công nghệ đóng tàu
chiến. Các hoạt động kinh tế và hệ thống phụ trợ như cảng biển, dịch vụ
ven bờ cũng không đủ để thúc đẩy cho ngành hàng hải phát triển.
Thứ ba là về mặt lịch sử và chính quyền, Việt Nam thường trực trong
tinh thần thời chiến. Do nằm bên cạnh một nước lớn, lại luôn có tham
vọng bành trướng xuống phía Nam, nên Việt Nam có rất ít thời kỳ hòa
bình, tự chủ đủ dài để phát triển đến trình độ đủ cao khả dĩ vươn ra đại
dương. Thêm vào đó, sự phân chia đất nước thành Đàng Trong – Đàng Ngoài
từ cuối thế kỷ XVI đã đẩy Việt Nam vào tình trạng tranh chấp nội bộ
hoặc nội chiến liên miên, làm suy giảm nội lực nghiêm trọng.
Các cuộc chiến này, dù là vệ quốc hay nội chiến, đều diễn ra trên đất
liền, nên hiển nhiên các kỹ thuật chiến tranh nếu có cũng đều tập trung
cho đất liền. Ưu thế của sự thúc bách thời chiến đã không được tận dụng
để phát triển hải quân và hàng hải vươn ra đại dương.
Chính quyền phong kiến trong các thời kỳ này đều ưu tiên vào việc
củng cố quyền lực, tranh giành nội bộ hoặc bị hút vào việc chống chọi
lại sự bành trướng từ phía Bắc để tồn tại, nên đã không hoàn bị đủ mạnh
để điều hành công cuộc vươn ra biển. Sựu yếu kém và bất đồng của chính
quyền trung ương là một bước cản lớn. Cộng với tinh thần hướng về lục
địa, bám chặt đất do bị ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến Trung Quốc,
các triều đại Việt Nam chưa bao giờ thực sự có chiến lược vươn ra đại
dương.
Đây là thời kỳ khoa học hiện đại ở châu Âu ra đời và phát triển mạnh
mẽ. Châu Âu thoát dần ra khỏi đêm trường trung cổ để phát triển và chiếm
lĩnh thế giới. Việt Nam trong khi đó vẫn còn phải lo đối phó với sự
bành trướng từ phương Bắc và tiêu hao sinh lực vào tranh chấp nội bộ,
nên việc không thể bắt vươn ra chinh phục thế giới, trong đó có việc
chinh phục đại dương, là điều tất yếu.
Sau khi bị Pháp xâm chiếm và đặt Việt Nam làm thuộc địa từ cuối thế
kỷ XIX, chính quyền phong kiến của Việt Nam hoàn toàn mất tác dụng trong
việc định hướng sự phát triển của đất nước. Những cuộc chiến tàn khốc
mà Việt Nam phải đương đầu trong phần lớn thế kỷ XX và mốt số sai lầm
trong chính sách phát triển sau khi thống nhất đã lấy đi nhiều mất cơ
hội phát triển của Việt Nam.
Việc vươn ra biển lớn để hội nhập với thế giới chỉ mới thực sự nhen
nhúm trong khoảng mười năm trở lại đây, khi Việt Nam và Mỹ ký hiệp định
Tự do thương mại song phương. Mười năm là khoảng thời gian quá ngắn để
một nước nghèo, lại gặp phải vô số khó khăn về kinh tế và thể chế như
Việt Nam, vươn ra mặt biển. Vì thế, cho đến giờ, Việt Nam chưa phải là
cường quốc biển cũng là điều dễ hiểu.
Vậy làm thế nào để vươn ra biển lớn? Rõ ràng, những bài học của quá
khứ vẫn còn nóng hổi với ước vọng vươn ra biển lớn của người Việt. Không
còn cách nào khác, phải khắc phục bằng được những yếu tố trong quá khứ
đã ngăn cản Việt Nam vươn ra chiếm lĩnh biển. Trong đó, nóng hổi nhất là
thoát khỏi sự chi phối về văn hóa và ý thức hệ từ Trung Quốc để hội
nhập với thế giới; phát triển tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ nghệ và
nguồn nhân lực đủ mạnh để có thể xây dựng được những đội tàu chiến và
thương thuyền lớn có thể vươn ra chiếm lĩnh đại dương; đồng thời củng cố
năng lực tổ chức và lãnh đạo của chính quyền ngang tầm tham vọng. Chỉ
có như thế, ước mơ trở thành cường quốc biển của Việt Nam mới có thể
thành hiện thực.
Không chỉ là mặt biển
Người Việt Nam từ xưa đã không xa lạ với các hoạt động trên mặt nước.
Việc sử dụng thuyền để di chuyển, đi lại đã được phổ biến rất sớm, mà
minh họa rõ nhất là các hoa văn người chèo thuyền trên trống đồng từ
thời văn hóa Đông Sơn, khoảng 2000-3000 năm về trước. Các mộ thuyền cổ
cũng cho thấy thuyền là phương tiện di chuyển phổ biến trong một thời
gian rất dài đối với người Việt cổ. Với những kinh kỹ năng và kinh
nghiệm khởi điểm đó, lại nằm sát bên bờ biển, lẽ ra Việt Nam hoàn toàn
có thể phát triển thành cường quốc biển. Nhưng các lý do nêu trên, có
thể còn chưa được thống kê đầy đủ, đã ngăn cản Việt Nam vươn ra đại
dương.
Ngày nay, trong thời hội nhập và toàn cầu hóa, nhu cầu xây dựng một
nền văn hóa đại dương, chinh phục biển lớn để vươn ra toàn cầu đã trở
thành một niềm mong muốn đối với nhiều người Việt. Tuy nhiên, những lý
do ngăn cản Việt Nam phát triển thành cường quốc biển trong quá khứ vẫn
hiển hiện. Tuy duy bám chặt đất liền, nay biến tướng thành bám chặt một
hệ tư tưởng hay một khuôn mẫu cũ, an phận với đời vẫn còn nặng nề như
hàng trăm năm về trước. Kiểu tư duy này trái ngược hoàn toàn với tư duy
đổi mới, hội nhập, chinh phục của các cường quốc biển. Vì thế, nếu không
đổi mới tư duy, từ bỏ những mô hình, thang giá trị cũ thì sẽ rất khó
hình thành văn hóa đại dương để vươn ra chinh phục biển lớn.
Nếu trong thời đại công nghiệp, các hoạt động kinh tế biển và liên
quan đến biển, thể hiện cụ thể ra ngoài bởi sự có mặt của các cảng biển,
là tối quan trọng để một thành phố hay đất nước trở thành cường quốc,
thì trong thời đại kinh tế tri thức ngày nay, đặc biệt với sự phát triển
của hệ thống hàng không dân dụng, vai trò của hệ thống cảng biển đã
giảm đi rất nhiều. Ví dụ cụ thể minh họa cho trường hợp này là hai thành
phố Liverpool Manchester của nước Anh. Hai thành phố này có thể coi là
địch thủ của nhau trong mọi lĩnh vực, từ bóng đá đến phát triển kinh tế.
Do có cảng biển, Liverpool đã từng là một trong những cửa ngõ chính để
nước Anh đi ra và chinh phục thế giới. Còn Manchester thì tuy nằm trong
nội địa nhưng lại có một sân bay thuộc hàng lớn nhất của nước Anh. Vì
thế, sự cạnh tranh của Liverpool và Manchester phần nào là sự cạnh tranh
gián tiếp của hai mô hình phát triển kinh tế dựa vào cảng biển và cảng
hàng không.
Nếu như trước đây Liverpool chiếm ưu thế vì có cảng biển lớn thì ngày
nay, Manchester luôn dẫn trước vì có sân bay lớn. Điều đó cho thấy, khi
ngành hàng không dân dụng phát triển thì nếu biết khai thác, cảng hàng
không có thể chiếm ưu thế trong việc thúc đẩy hội nhập và phát triển
kinh tế so với cảng biển.
Tuy nhiên, cả hai loại hình phát triển dựa vào cảng biển và cảng hàng
không này đều có một điểm chung là tư duy hội nhập và chinh phục thế
giới rất cao. Đó là một trong những đặc trưng chính của văn hóa đại
dương. Vì thế, trong việc xây dựng văn hóa đại dương thì quan trọng nhất
là xây dựng tư duy hội nhập và chinh phục thế giới ở bất cứ lĩnh vực
nào, chứ không nhất thiết chỉ giới hạn trong việc dốc sức để đóng thuyền
to tàu lớn hay xây dựng hệ thống cảng biển tràn lan không hiệu quả.
Muốn làm được điều này, trước hết phải dám từ bỏ tư duy bám chặt đất
liền – nay còn thể hiện ở việc bám vào một neo ý thức hệ duy nhất - để
chủ động học hỏi những thành tựu về tư tưởng học thuật, cách thức tổ
chức xã hội khoa học - dân chủ của thế giới, nhằm thoát khỏi tình trạng
tự ru ngủ trong các mô hình, ý thức hệ và thang giá trị đã lạc hậu nhưng
lại có tác dụng như những neo ý thức giữ chân Việt Nam không thể vươn
ra hội nhập cùng quốc tế.
Xây dựng văn hóa biển, chính vì thế cần khởi đầu bởi việc rũ bỏ những
mô thức tư duy cũ, trong đó quan trọng nhất là thoát khỏi ảnh hưởng của
văn hóa hướng vào lục địa, bế quan tỏa cảng, coi mình là trung tâm của
thế giới do ảnh hưởng của Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử, để
hội nhập với thế giới.
Chỉ như thế, Việt Nam mới có thể hội nhập thực sự và từng bước chinh
phục thế giới, ở bất cứ lĩnh vực nào chứ không nhất thiết chỉ giới hạn
trong việc chinh phục mặt biển.
________________________
Bài đã đăng ở Tạp chí Tia Sáng: Xây dựng Việt Nam trở thành cường quốc biển, số Tết 2012