Phạm Duy Nghĩa
Người tài chắc phải là những người xuất chúng. Mỗi phát kiến
lớn nhỏ của họ góp phần làm cho cuộc đời này thêm hạnh phúc. Tìm ở đâu
ra những người quý hiếm ấy?
Hàng năm, thế giới 7 tỷ người này góp thêm 1,75 triệu đơn xin cấp
sáng chế, tức là những phát kiến kỹ thuật có tính mới so với toàn cầu.
Như vậy, trung bình cứ một phút trôi qua trên thế giới này đã có thêm
hơn 3 đơn xin cấp sáng chế. Trong khi đó, ở nước ta cả một ngày trôi qua
chưa có tới 1 đơn, năm 2010 chỉ có 306 đơn xin cấp sáng chế của người
Việt Nam được yêu cầu bảo hộ.
Từ số lượng các sáng chế, các công trình khoa học, tới các giải
thưởng danh giá trên thế giới này, người Việt Nam vốn tự hào là một dân
tộc thông minh chẳng thiếu anh tài, song đóng góp của dân tộc chúng ta
vào kho tàng các phát minh trên thế giới quả là còn rất nhỏ nhoi.
Có nhiều lý do để giải thích hiện tượng ấy, thuyết nào cũng có đầy lý
lẽ. Rằng ở xứ ta “khôn chết, dại chết, biết thì sống”, một xã hội trọng
tinh thần cộng đồng thì xấu đều hơn tốt lỏi, người nước ta không ưa kẻ
chơi trội. Rằng một thời đề cao chủ nghĩa quân bình, mọi cố gắng tìm
kiếm phá cách để thỏa chí tang bồng đôi khi bị quy kết là cá nhân chủ
nghĩa. Lắm tài, nhiều tật, trong một xã hội đề cao tôn ti trật tự và lối
sống cộng thể đó, người nước ta có thể nể cái tài của người xuất chúng,
song chưa đủ khoan dung để chấp nhận những tật riêng của họ. “Chữ tài
liền với chữ tai một vần” đôi khi vẫn vang lên như một lời nguyền khó
vượt qua.
Người ta thường bảo con người là sáng tạo kỳ diệu nhất của tạo hóa,
hiểu biết của chúng ta về chính con người vẫn còn rất sơ khai. Đã xa rồi
thời của những lý thuyết sặc mùi phân biệt chủng tộc, đã xa rồi thời
của lý thuyết phân biệt con người xứ ôn đới và nhiệt đới, màu da và xứ
sở không là điều kiện để một dân tộc trở nên thông minh. Những con người
xuất chúng phần nhiều chỉ có thể được sinh ra từ chính sách giáo dục và
cách thức tổ chức xã hội của mỗi dân tộc. Như vậy, muốn tìm những người
xuất chúng ấy, phải chất vấn thái độ của dân tộc chúng ta đối với nền
giáo dục, phải đánh giá những thể chế xã hội có góp phần khuyến khích sự
tự do, sáng tạo của con người.
Lục tung vốn cổ, ngoài khắc kỷ phục lễ, học tiết độ bản thân để làm
người, nền Nho học truyền thống cũng tạo ra vô số xiềng xích, ngăn cản
dân tộc chúng ta dám thách thức các giá trị được xem là tinh hoa kinh
điển để tạo ra những giá trị mới. Cái bóng cũ đã tàn, song dư âm của
hàng nghìn năm ấy không dễ tan biến.
Đằng sau ước mơ cũ “tiên học lễ”, ngày nay con em chúng ta đang được
nhồi nhét bao nhiêu thứ được gọi là “hậu học văn”. Năng lực sống, năng
lực giao tiếp, năng lực cạnh tranh và chung sống với những biến động
thay đổi ngày càng mau lẹ ngoài đời, tiếc rằng chưa được nhà trường chú
trọng. Muốn ươm mầm tài năng, ngoài giỏi làm toán, giỏi làm văn, trẻ nhỏ
cần được khuyên khích phát hiện vấn đề mới và ráng sức giải quyết
chúng. Chung quy lại, chưa có nhiều người xuất chúng, nguyên nhân đầu
tiên thuộc về chính sách giáo dục, đặc biệt là ở bậc phổ thông của đất
nước chúng ta.
Cũng như thế, để những mầm non sáng tạo ấy không thui chột, cần chất
vấn các thể chế xã hội hiện thời của đất nước chúng ta có giúp dung
dưỡng tài năng hay không. Trong sinh hoạt kinh tế, chính trị cũng như
văn hóa-xã hội, phải khơi thông được cuộc ganh đua giữa các ý tưởng.
Cạnh tranh công khai sẽ ban thưởng cho sáng tạo và loại trừ trì trệ. Mọi
chính sách của nhà nước, tốt nhất là cần khơi thông cho cuộc cạnh tranh
ấy được diễn ra.
Tống cựu, nghinh tân, nói thì dễ mà làm theo cái mới quả thật khó.
Đất nước được canh tân trước hết bởi các chính sách đúng đắn. Ươm mầm và
dung dưỡng người tài trước hết nhờ vào việc thiết kế chính sách giáo
dục và quản trị quốc gia. Suy nghĩ và hành xử theo lối cũ là lẽ thường
tình, tự làm mới chính mình mới là điều xuất chúng. Tân xuân, những mong
ngày càng có nhiều người làm chính sách ở đất nước chúng ta dám vươn
tới những điều phi thường ấy.
Chúc mừng Năm mới!