Nguyễn Xuân Phước
Văn minh nghĩ kỹ còn nhiều việc
- Lý Đông A
I.
Sau năm 1975, đảng Cộng Sản Việt Nam thống nhất đất nước, ngọn cờ
“giải phóng” và “dân tộc” được sử dụng trong thời kỳ chiến tranh lại
được vận dụng để thực hiện sứ mệnh cách mạng vô sản. Đồng thời, một chế
độ độc tài toàn trị được thiết lập trên toàn đất nước. Yêu nước trở
thành yêu chủ nghĩa xã hội. Và trong logic đó, yêu nước tức là yêu chế
độ độc tài.
Với nhiệt tình thôi thúc từ ngọn lửa cách mạng Tháng Mười của Nga,
với kinh nghiệm cải cách ruộng đất miền Bắc năm 1956 học tập từ Trung
Cộng, đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện chính sách đánh tư sản mại
bản, đốt sách để tiêu diệt văn hoá phẩm được gọi là “đồi trụy” của miền
Nam, tịch thu ruộng đất để tập thể/hợp tác hoá nông nghiệp, đổi tiền,
quốc hữu hoá tài sản nhân dân trên toàn quốc...
Giấc mơ giải phóng Việt Nam khỏi bàn tay của đế quốc để xây dựng chế
độ “chuyên chính vô sản” tại Việt Nam của các tiền bối cách mạng cộng
sản Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đã trở thành sự thật.
Sau thời kỳ phát động khẩu hiệu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”,
đảng cộng sản VN khám phá ra rằng tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã
hội là một hành trình khó khăn. Sư thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản chẳng
những không làm cho đất nước tiến được vững chắc, mà còn làm cho đất
nước tụt hậu nhanh chóng. Trong bối cảnh của các quốc gia Á Châu cất
cánh kinh tế bay cao, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm cho đất
nước điêu tàn, nhân dân nghèo đói và đưa đất nước đến bến bờ phá sản.
Để giải quyết tình trạng bế tắc của mâu thuẫn nội tại xã hội chực chờ
bùng nổ tại Liên Sô tổng bí thư Gorbachev phải đưa ra chính sách
Glasnost & Perestroika để cứu vãn đất nước và hệ thống XHCN ở Đông
Âu. Trong giai đoạn thập tử nhất sinh đó, dưới ảnh hưởng và áp lực của
Liên Sô, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải đưa ra chính sách “đổi mới” qua
Đại hội VI năm 1996 để tìm đường thoát hiểm.
Từ đại hội VI năm 1996, cương lĩnh của ĐCSVN bổ xung thêm những đặc
trưng XHCN mà Mác-Engel chưa từng đề cập tới. Đặc trưng số một trong tám
đặc trưng quan trọng nhất của cương lĩnh của đại hội VI là “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Cho đến đại hội XI năm 2011 vừa qua, cương lĩnh chính trị của ĐCSVN cũng tái xác nhận đặc trưng ”Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” là mục tiêu hàng đầu của đảng, và là khẩu hiệu để tuyên truyền xây dựng đất nước.
Hãy tạm để qua mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh”, khẩu hiệu kêu gọi toàn dân xây dựng đất nước ”công bằng dân chủ văn minh”
phản ảnh mơ ước của hằng bao thế hệ Việt Nam hơn 100 năm nay. Từ mối
nhục mất nước vào tay thực dân Pháp, đến sự tàn phá của chiến tranh
giành độc lập và chiến tranh Quốc Cộng, đến thời kỳ tăm tối để tiến lên
chủ nghĩa xã hội làm đất nước thụt lùi cả hàng nhiều thập kỷ so với các
nước lâng bang, không một người Việt nào không có giấc mơ được sống công
bằng dân chủ văn minh như các quốc gia tân tiến khác trên trên thế
giới.
Một mặt đảng cộng sản kiên trì bảo vệ nền độc tài độc đảng để khống
chế xã hội và con người; mặt khác đảng mời gọi mọi người xây dựng một xã
hội công bằng dân chủ văn minh. Sự thể này đặt lại vấn đề rất căn bản
là liệu chế độ cộng sản có thể xây dựng một đất nước có công bằng dân
chủ văn minh hay không?
II.
Chúng ta quen sử dụng hai chữ văn minh để chỉ dấu cho sự tiến bộ của
con người và xã hội. Nhưng một con người văn minh là gì? Một xã hội văn
minh là gì?
“Văn” là “đẹp” và “minh” là “sáng”. Nguyên nghĩa của “văn minh” có
nghĩa là “sáng đẹp”. Nhưng thế nào là một con người hay xã hội sáng đẹp?
Từ điển bách khoa mở định nghĩa và diễn giải hai chữ “văn minh” như sau:
“Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm
xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người.
Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức,
tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người được hình
thành cho đến thời điểm xét đến. Đối nghịch với văn minh là hoang dã,
man rợ, lạc hậu . Khái niệm văn minh chỉ mang tính tương đối, có tính so
sánh tại thời điểm xét đến mà không có giá trị tuyệt đối.”
Ý niệm “văn minh” do đó, là sự “sáng đẹp” đi liền với sự duy trì vận
động và tiến hoá của xã hội loài người. Đó là một vận động hướng thượng
để đưa loài người lên một trình độ cao hơn, đẹp hơn, gần với những giá
trị nhân bản hơn, và xa cách đời sống dã man của động vật trong thiên
nhiên hơn.
III.
Sự hình thành đời sống người từ thời hồng hoang đến nay là một một
cuộc vật lộn liên tục giữa con người với xã hội và thiên nhiên. Từ thời
kỳ sống trong hang, hái lượm trái cây, sống lẫn ở lẫn với thiên nhiên và
các loại cầm thú khác, loài người ý thức được nhân tính và dần dà tách
ra khỏi đời sống thiên nhiên để thực hiện đời sống người.
Nhà cách mạng Lý Đông A trong tài liệu Duy Nhân Cương Thường
cho rằng sự xuất hiện của nhân thể (human form) chưa phải là sự thành
hình đời sống người trong ý nghĩa đời sống người là đối nghịch với đời
sống cầm thú. Do đó, sự xuất hiện của tập đoàn sinh vật có nhân thể chỉ
là sự xuất hiện của người dự bị, hay ngợm sắp thành người.
Lý Đông A cho rằng nhân thể trở thành người khi tập đoàn nhân thể đó
biết tái sản xuất sản xuất của tự nhiên như biết trồng trọt, chăn nuôi,
nướng thịt; và biết tu chỉnh lối sinh sản đực-cái của thú vật để chuyển
thành lối sinh sản chồng-vợ và thành lập gia đình - mà ông gọi là tái
sinh sản cái sinh sản của tự nhiên. Ông cũng cho rằng loài người tiếp
tục tu chỉnh cách sống chung kiểu bầy đoàn thú vật “mạnh được yếu thua,
khôn sống mống chết” để chuyển thành cách “sống còn, nối, tiến hóa đến
vô cùng”, để thành lập xã hội loài người, và luôn luôn tăng tiến hiệu
xuất của xã hội theo chiều hướng thượng, “ngày một mới” – mà ông gọi là
tái hiệu xuất cái hiệu xuất của xã hội và lịch sử.
Lý Đông A cho rằng chính sự kiện tập đoàn nhân thể thời hồng hoang
biết cải biến thiên nhiên để phục vụ cho mình chính là cuộc cách mạng
đầu tiên đưa bầy đoàn ngợm thành xã hội người, và lập thành nhân đạo. Nhân đạo là cách sống và đường sống đặc thù của loài người khác loài vật.
Quá trình chung sống thông qua giai đoạn cách mạng nông nghiệp và xã
hội đầu tiên đó của loài người nẩy sinh ra những qui luật để taọ ra đời
sống người. Qua quá trình tiến hóa đó sinh vật gọi là người trên nhân
thể trở thành người có nhân tính và nhân đạo.
Lý Đông A gọi xã hội đầu tiên có nhân tính đó là ‘xã hội tự tính”.
“Xã hội tự tính” đó phải trải qua thời gian và điều kiện không gian để
phát huy và phát triển. Lịch sử, theo Lý Đông A, là lịch sử nhân đạo, là
quá trình hiện thực hóa “xã hội tự tính” qua thời gian và không gian.
Qua cuộc sống thực tiễn, tích lũy kinh nghiêm sống còn, nối, tiến hóa
của hàng triệu năm, con người đã dần dần chuyển được tính sống còn tự
nhiên của mọi loài sinh vật thành nhân tính đặc thù của loài người. Quá
trình đó tạo thành đường sống đặc thù của loài người mà ngày nay chúng
ta gọi là nhân đạo. Chính sự xuất hiện của nhân đạo và nhân tính mới làm
cho loài người khác với loài vật. Xây dựng một xã hội văn minh là xây
dựng một xã hội Người, theo nhân đạo, có nhân tính.
Phân tích cụ thể hơn, Lý Đông A thấy rằng, qua thời gian, nhân tính được thể hiện trên ba mặt: Trinh, Bình, và Hòa:
- Trung thành hay trung trinh là chất keo sơn để kết hợp xã hội. Do
đó từ quan hệ đực cái của loài vật, nhân tính đòi hỏi vợ chồng phải lấy
sự trung thành làm gốc khi thành lập đời sống người. Và cũng dựa trên
nguyên lý trung trinh, xã hội thiết lập định chế hôn nhân để thực hiện
và bảo vệ sự trung thành đó và để bảo lưu huyết thống được sinh tồn tục,
lâu dài và bền vững. Do đó, nhân tính đầu tiên là sự trung trinh, và đó
là ý nghĩa của nhân tính Trinh.
- Để giải quyết nhu cầu ăn, mặc, ở, nhân tính chối bỏ quy luật của
thiên tính tự nhiên là mạnh được yếu thua, giành miếng ăn hay áo mặc.
Nhân tính hướng dẫn con người giải quyết nhu cầu sinh thực bằng sự mãn
thích nhu yếu cách đồng đều. Do đó, con người có nhân tính biết chia cơm
xẻ áo cho người nghèo đói. Đó là ý nghĩa chữ Bình.
- Mâu thuẫn giữa người và người xảy ra khi người không tôn trọng sự
trung thành với nhau, khi loài người không biết tôn trọng sự bình đẳng
trong sự mãn thich nhu yếu, khi thú tính áp chế nhân tính. Để giải quyết
mâu thuẩn loài người có thể gây chiến tranh, nhưng đồng thời loài người
có thể giải quyết mâu thuẩn bằng sự hoà giải. Chiến tranh là dùng bạo
lực để giải quyết mâu thuẩn là bản năng của thú tính. Khả năng hoà giải
là một đặc tính của loài người. Đó là ý nghĩa chữ Hoà.
Nhân tính chính là khoảng cách giữa loài người và loài vật. Cho nên
một xã hội văn minh đúng nghĩa là phải thực hiện được nhân tính trong
đời sống người. Một xã hội văn minh đưa dẫn con người đến chổ hoàn thiện
“trinh bình hoà” trong quan hệ giữa người và người. Và xã hội văn minh
chính là xã hội đã xa rời xã hội dã man của loài cầm thú, luôn hướng đến
và cải tiến cách thực hiện những nhân tính gốc của xã hội tự tính.
IV.
Chủ nghĩa Mác-Ăngghen cho rằng người vượn biến thành người là do quá
trình lao động hàng triệu năm. Chưa nói tới giá trị của thuyết tiến hoá
trong sự hình thành loài người, chủ nghĩa Mác-Ăngghen lấy một số nguyên
tắc xã hội cộng sản nguyên thủy làm mô hình lý tưởng để hướng đến xây
dựng xã hội Cộng Sản tương lai thông qua sự thiết lập nền độc tài của
giai cấp vô sản.
Mác, vì dựa trên qui luật của tự nhiên, nên chỉ thấy lao động là xuất
phát điểm của đời sống người. Mác không hề nhận thức được loài người
thành lập là do sự xuất hiện của nhân tính. Trong kinh điển Mác-Engel
không có sự mặc nhận nhân tính như là xuất phát điểm của đời sống người.
Vì thế Mác lấy xã hội cộng sản nguyên thủy làm xuất phát điểm của xã
hội loài người, và xem hành vi hái lượm của giống người nguyên thủy là
nền kinh tế tự nhiên. Mác không nhận thức được rằng khi nhân tính chưa
xuất hiện thì xã hội nguyên thủy đó đó chỉ là tập hợp của một bầy đoàn
ngợm, hay người dự bị, để chuẩn bị làm người.
Lý Đông A cho rằng sống theo tự nhiên thì chưa có kinh tế vì kinh tế
là một hành động nhân vi, do con người tác động, khai thác và cải biến
tự nhiên. Chỉ từ khi con người bắt đầu tu chỉnh lại lối sản xuất theo tự
nhiên thì lúc đó mới có kinh tế. Xã hội mà Mác muốn xây dựng do đó là
một xã hội chưa có con người với nhân tính, và do đó không phải là xã
hội của con người. Triết gia mác-xít Trần Đức Thảo đã thấy điều này
trong bài viết “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con
người”.
Đối với chủ nghĩa Mác trong quan hệ giữa người và người, sự trung
thành với lý tưởng CS và giai cấp vô sản là tuyệt đối. Người ta không
cần đến sự trung thành giữa người và người. Do đó, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, bạn bè, hàng
xóm láng giềng, chủ thợ phải thực hiện đấu tranh quan điểm và đấu tranh
giai cấp đấu tố lẫn nhau. Trinh hay sự trung thành giữa người và người
không bao giờ là nền tảng của chủ nghĩa Mác.
Một mặt, Mác chủ trương xây dựng một xã hội “bình đẳng” không có bóc
lột để giải quyết nhu yếu cho con người. Một mặt khác Mác, dựa vào duy
vật biện chứng, chủ trương dùng bạo lực cách mạng để giai cấp vô sản
chiếm lấy phương tiện sản xuất của giai cấp tư sản.
Nhưng đấu tranh giai cấp là sự áp dụng quy luật sinh tồn trong tự
nhiên của động vật vào xã hội. Đó là qui luật mạnh được yếu thua. Vì vậy
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản dùng
bạo lực để xoá bỏ chế độ tư hữu để thành lập “chế độ công hữu” nhằm thâu
tóm tài sản của đất nước và của nhân dân để làm của riêng. Đồng thời
Mác biến giai cấp tư sản cũ thành giai cấp vô sản mới để xã hội triền
miên đấu tranh giai cấp.
Vì Mác chỉ giải quyết nhu yếu loài người bằng qui luật của tự nhiên
cho nên lý tuởng bình đẳng của Mác khi ứng dụng vào thực tế chỉ đem lại
lợi ích cho một giai cấp nầy bằng sự hy sinh của giai cấp khác. Do đó,
chủ nghĩa Mác không thể đem bình đẳng cho loài người.
Đấu tranh giai cấp cũng là phương pháp giải quyết mâu thuẩn giữa
người và người, giữa giai cấp và giai cấp. Trong cuộc chiến “một sống
một chết” với chủ nghĩa tư bản, người cộng sản phải đánh nhau tả tơi với
đối phương như con thú dữ giành miếng ăn cho đến khi một bên ngã gục.
Trong chủ nghĩa Mác hoàn toàn không có ý niệm “hoà” để hoá giải mâu
thuẩn giữa người và người.
Khi mới lên làm tổng bí thư đảng CS Liên Xô Kruschev được thế giới
cộng sản hoan hô vì chủ trương “sẽ chôn sống chủ nghĩa tư bản”. Nhưng
khi ông chủ trương “chung sống hoà bình” với Hoa Kỳ và Tây Phương, ông
đã bị những ngưòi “CS chân chính” chỉ trích kịch liệt là “xét lại”, và
cuối cùng ông đã bị lật đổ. Cho đến ngày hôm nay, nhiều người cộng sản
chân chính vẫn sợ hãi hiện tượng “diễn biến hoà bình” đang xuất hiện
trong đảng.
Khi phê phán chủ nghĩa Mác, Lý Đông A cho rằng chủ nghĩa Mác Lê đã
lấy qui luật của tự nhiên áp dụng thẳng tuột vào đời sống người mà không
qua nút điều chỉnh của nhân tính, và do đó, tội ác của chủ nghĩa Mác là
biến loài người thành lò thí nghiệm xã hội và coi con người như “muối,
sắt”.
IV.
Nhìn từ góc cạnh Tây phương, và đứng về phương diện ngữ nghĩa, “văn
minh” trong tiếng Pháp và tiếng Anh là “civilization” . Đó là sự kết hợp
của chữ “civil” (dân sự) và tiếp vĩ ngữ “ization” (trở thành). Trong
gốc Latin, “văn minh” có nghĩa là “trở thành dân sự” hay “dân sự hoá”.
Như vậy, “văn minh” nguyên nghĩa của nó có nghĩa là quá trình trở thành
dân sự của một xã hội.
Thoạt đầu “civilization” chưa có ý nghĩa “văn minh”. Chữ “civil” có
nghĩa là “dân sự” được dùng sớm nhất trong tiếng Latin. Ở thế kỷ thứ 6,
hoàng đế Justinian của đế quốc Byzantyne soạn bộ luật dân sự đầu tiên
được gọi là “Corpus Juris Civilis“.
Cho đến thế kỷ thứ 14, chữ “civil” cũng chỉ có nghĩa là “liên hệ đến
người dân”. “Civilis” biến dạng thành “civility” có nghĩa là “lịch lãm.”
Do bối cảnh lịch sử của Tây phương, cho đến giữa thế kỷ thứ 18, chữ
civilization (dân sự hoá) mới có ý nghĩa đối nghịch với “dã man”. Các sử
gia cho rằng Adam Ferguson
trong tác phẩm An Essay on the History of Civil Society (Luận đề về
lịch sử xã hội dân sự ) (Edinburgh, 1767 - p. 2) là tác giả người Anh
đầu tiên đã sử dụng “civilization” để chỉ dấu cho sự tiến bộ của loài
người bằng sự hình thành “xã hội công dân”, hay “xã hội dân sự”.
Như vậy quá trình hình thành, ý nghĩa chữ văn minh đi từ gốc Latin có
nghĩa là liên hệ tới người dân. Do chữ “văn minh” trong tiếng Việt
không có chứa đựng chữ “người dân” cho nên trong ngôn ngữ Việt Nam không
thấy được giá trị con người hay người dân trong hai chữ “văn minh”.
Tại sao dân sự hoá trở thành văn minh?
Từ thế kỷ thứ 15 lịch sử tây phương bước dần ra khỏi thời kỳ trung cổ
với sự suy tàn quyền lực tuyệt đối của đế quốc La Mã Thánh - The Holy
Roman empire. Xuất hiện đồng thời với phong trào cải cách giáo hội của
Martin Luther là phong trào độc lập của các vương quốc Âu Châu đối với
giáo quyền Vatican. Xã hội tây phương bắt đầu bước ra khỏi sự kiềm chế
của uy quyền của giáo hoàng và giáo hội để đi vào thời đại phục hưng.
Từ đó, các tư tưởng tự do dân chủ bắt đầu xuất hiện. John Locke với ý
niệm quyền tự nhiên về đời sống, tự do và tài sản; Montesquieu với tư
tưởng tam quyền phân lập; Voltaire với quyền tự do tư tưởng; Hobbes và
Russeau với ý niệm khế ước xã hội và quyền lực chính thống đến từ người
dân. Các quốc gia tây phương chuyển mình từ chế độ phong kiến độc tài
sang chế độ dân chủ. Cuộc cách mạng dân chủ Hoa Kỳ 1776 và cách mạng
Pháp 1789 đã lan rộng khắp Âu Châu đưa tới sự cáo chung của chế độ phong
kiến tây phương và xã hội dân sự ra đời với sự thành hình của chế độ
dân chủ.
Dân sự hoá chính quyền là giải thể chế độ chuyên chính của chế độ
phong kiến, của các vương quyền, và giáo quyền để người dân được tham
gia vào sinh hoạt chính trị. Giải trừ độc tài là quá trình dân sự hoá xã
hội. Đó là chỉ dấu của sự tiến bộ, của sáng và đẹp. Và đó chính là ý
nghĩa nguyên thủy của hai chữ “văn minh”.
V.
Độc tài là thể chế chính trị mà quyền lực tập trung vào một người hay
một nhóm người. Quyền lực nầy được duy trì bằng bạo lực, không bị giới
hạn hay chi phối bởi luật pháp, hiến pháp hay định chế xã hội.
Các những ngưòi khai sinh chủ nghĩa cộng sản chủ trương phải thiết
lập nền độc tài vô sản (proletarian dictatoship) để xây dựng xã hội mới.
Khi dịch ra tiếng Việt, các nhà Mác-xít Việt Nam gọi chế độ độc tài một
cách văn hoa là “chuyên chính vô sản” .
Trong tác phẩm Phê Phán Chương Trình Gotha, Mác khẳng định rằng “giữa
xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một giai đoạn cách mạng chuyển tiếp
từ xã hội nầy qua xã hội kia. Trong giai đoạn chuyển tiếp chính trị nầy
nhà nước coi như không có, chỉ còn chế độ cách mạng độc tài của giai
cấp vô sản.” — Critique of the Gotha Program (1875).
“Tiến lên chủ nghĩa xã hội” chính là thiết lập chế độ độc tài toàn
trị để xây dựng một xã hội dựa trên bạo lực, tức là đưa xã hội loài
người trở về với đời sống động vật thời kỳ hoang dã man rợ. Đó là xã hội
không có nhân nghĩa, không có nhân tính, càng ngày càng cách xa với đời
sống người. Do đó chế độ độc tài, hay nền chuyên chính vô sản, tự thân
đã phủ định xã hội dân sự văn minh.
Nói tóm lại, văn minh thể hiện cái đẹp của đời sống người càng ngày
càng thăng hoa. Nội dung của văn minh chính là đời sống người với đầy đủ
nhân tính, nhân bản và nhân chủ. Một xã hội càng văn minh là xã hội
càng tiến gần đến những giá trị của con người và càng xa rời đời sống dã
man của động vật. Đó là xã hội đã tháo gỡ được chế độ độc tài, đã được
dân sự hoá, và đã hình thành được xã hội dân sự và chế độ dân chủ.
VI.
Nhiều người cho rằng chủ nghĩa Mác không còn giá trị trên thực tế tại
Việt Nam vì những người cộng sản Việt Nam đã trở thành những nhà tư bản
đỏ và xã hội Việt Nam đã bị tư bản hoá. Đặt lại giá trị của chủ nghĩa
Mác Lê là việc làm không cần thiết.
Nhưng trên thực tế những người cộng sản Việt Nam vẫn còn bám víu lấy
chủ nghĩa Mác Lê để làm “ánh sáng” nhằm xây dựng xã hội. Vấn đề tham
nhũng, cướp đất của dân, cướp tài sản của các cơ sở tôn giáo, hay mafia
hoá chính quyền không phải là hiện tượng mà là bản chất của chế độ độc
tài chưa được dân sự hoá, của một xã hội được xây dựng trên ý thức hệ
thể hiện bản năng loài cầm thú chưa được thấy ánh sáng của văn minh của
loài người.
Hơn thế nữa, quan điểm”độc tài” của chủ nghĩa Mác Lê đã được đưa vào
đời sống xã hội Việt Nam bằng điều 4 hiến pháp. Cho nên đặt lại những
giá trị căn bản của chủ nghĩa Mác trong mối tương quan với ý niệm công
bằng dân chủ và văn minh là một trong những “điều kiện cần” để phá vỡ
những bế tắc của Việt Nam hiện nay.
Vì dân chủ và công bằng là hiệu suất của xã hội dân sự, tức là xã hội
văn minh, và vì chủ nghĩa Mác-Lê với chủ trương độc tài vô sản đã phủ
định văn minh, cho nên hiệu quả tất yếu là đảng cộng sản không có khả
năng đem lại công bằng dân chủ và văn minh cho loài người nói chung và
cho người dân Việt Nam nói riêng.
Do đó, khẩu hiệu “xây dựng đất nước công bằng dân chủ văn minh” trong
bối cảnh một chế độ độc tài toàn trị không những là một khẩu hiệu hoàn
toàn vô nghĩa, mà còn đi ngược lại với những logic “duy vật” của chính
chủ nghĩa Mác.
NGUYỄN XUÂN PHƯỚC
(Mùa Xuân Nhâm Thìn 2012)
(Mùa Xuân Nhâm Thìn 2012)