Minh Diện
Trong kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII, bàn về tăng mức lương
tối thiểu từ 1.030.000 lên 1.300.000 đồng từ tháng 5-2013, Bộ trưởng tài
chính Vương Đình Huệ nói rất khó thực hiện, trừ khi Quốc hội cho phép
in thêm tiền. Nhiều đại biều phản ứng: “Thế thì thà đừng tăng lương!”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng hiến kế: “Hạn chế mua xe, bớt hội hè lấy tiền tăng lương!”.
Phó chủ tịch Tòng Thị Phóng có sáng kiến: “Bớt một nửa số chuyến đi nước ngoài cũng được kha khá”.
Thế mới biết tiền chi tiệc tùng, xe pháo, lễ hội, đi nước ngoài lớn
cỡ nào? Tất nhiên đảng biết, chính phủ biết, còn dân vẫn bị mù tịt.
Nhưng xem ra, sáng kiến của ông Hùng, bà Phóng chẳng qua cũng chỉ là
chuyện quá vụn vặt! Tưởng “đỉnh cao trí tuệ” có kế hoạch dài hơi, ai ngờ
lại theo kiểu “giật gấu vá vai” như vậy?
Thử hỏi, nếu cắt giảm hết chi phí công, bỏ hết các chuyến công du
nước ngoài thì được bao nhiêu tiền? Có đủ thêm mỗi công chức 100.000,
hơn nữa thỉ 300.000 đồng ăn tết chứ đừng nói thường xuyên liên tục? Hãy
lấy 26 triệu người ăn lương nhân với 100.000-300.000 sẽ thấy con số
lớn cỡ nào?
Không quốc gia nào trên thế giới đội ngũ công chức ăn lương nhà nước hùng hậu như Việt Nam.
Ông Nguyễn Thế Trung, Phó trưởng Ban Dân vận Trung ương thừa nhận:
“Việt Nam là nước đứng đầu thế giới về sự cồng kềnh bộ máy công chức từ
cấp xã đến trung ương. Ngân sách mỗi năm đã phải chi một khoản quá lớn
để trả lương cho bộ máy đó mà cuối cùng lương lại quá thấp!” (Tham luận
tại Hội thảo “Đổi mới hệ thống chính trị” tại Học viện Nguyễn Ái Quốc
31-1-2013).
Nước Pháp dân số 64.044.000 người, tổng thu nhập quốc dân (GDP) 2.700 tỷ đô la, có 5.300.000 công chức, chiếm 0.8%.
Việt Nam dân số 88.780.000 người, tổng thu nhập quốc dân 106 triệu đô la, có 26 triệu chức, chiếm 2,95% .
Thu nhập kém người ta 25, 47 lần, số lượng người ăn lương hơn người ta 3,6 lần, công chức không chết đói mới là chuyện lạ!
Ở Pháp, cũng như các nước khác, khái niệm về lương là tiền công và
lợi ích người sử dụng lao động trả cho người lao động. Người sử dụng lao
động được hiểu theo nghĩa rộng, là nhân dân, người lao động là toàn bộ
hệ thống công quyền từ trung ương đến địa phương. Tiền thuế của dân và
tiền khai thác tài nguyên cùa đất nước được dùng làm ngân sách chi cho
an ninh quốc phòng, kiến thiết đất nước, và trả công cho bộ máy chính
phủ điều hành đất nước theo hiến pháp và pháp luật. Chính phủ là người
làm thuê, phải hoàn thành công việc của Chủ là nhân dân giao cho, tương
xứng với mức lương đã được thỏa thuận. Người dân không đóng thuế để
nuôi báo cô bất kể tổ chức chính trị xã hội nào.
Một nền kinh tế đứng thứ 5 thế giới như Pháp, chỉ phải nuôi một bộ
máy nhà nước chiếm tỷ lệ khiêm tốn 5,3% đã chật vật, công chức biểu
tình, đình công rần rần. Việt Nam chưa thoát nghèo, càng nghèo hơn khi
phải nuôi bộ máy công chức khổng lồ 26 triệu người, bình quân cứ bảy
người dân phải nuôi hai cán bộ ngổi trên đầu trên cổ mình.
Nhà bào lão thành Thái Duy có lần viết trên báo Đại Đoàn Kết: “Không ở
đâu như dân ta, phải è lưng đóng thuế nuôi ba bộ máy đảng, nhà nước, và
đoàn thể”.
Nói thế chưa đúng, vì Việt Nam chẳng đào đâu ra ba bộ máy, mà chỉ có
một bộ máy lãnh đạo duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước của
đảng, chính phủ của đảng, các đoàn thể của đảng. Thử hỏi có tổ chức,
hội, đoàn nào đảng không nắm quyền lãnh đạo? Chỉ nhỏ xíu như cái “Hội
người mù” cũng phải có người của đảng lãnh đạo mới không đi trệch đường
lối, và tất nhiên dân phải trả lương lãnh đạo hội đó.
Quyền lực của Đảng cộng sản Việt Nam bao trùm lên toàn bộ đất nước,
dù toàn bộ đảng viên chỉ chiếm 4% dân số. Quốc hội với danh nghĩa cơ
quan quyền lực cao nhất, đại diện cho nhân dân, nhưng 95% đại biểu là
đảng viên.
Tiến sỹ Tống Đức Thảo phát biểu trong hội thảo đổi mới hệ thống chính
trị: “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, của dân, nhưng là đảng
cử, dân bầu. Bầu cho những ứng viên đã được định trước theo sắp xếp của
cấp ủy, của đảng. Thực chất là hình thức, ai ngồi ghê snào đã sắp sẵn
trước cả rồi, như ‘bỏ cối không trật”, dân chả có quyền hành gì!”.
Để duy trì quyền lãnh đạo độc tôn, Đảng cộng sản đã phát triển hệ
thống quyền lực từ trung ương đến địa phương với một lực lượng hùng hậu
chưa tứng có trong lịch sử.
Dân “chả có quyền hành gì” mà phải còng lưng nuôi bộ máy quyền lực
đó. Người bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, người đằm
mình trong gió bão ngoài biển khơi, người vắt kiệt mồ hôi trong các nhà
máy xí nghiệp, người ra nước ngoài làm thuê...Từ bà bán ve chai vé số
đến nhà doanh nghiệp, từ đứa trẻ ẵm ngửa đến người chết, đều phải đóng
thuế nuôi bộ máy của đảng. Tiền thuế không đủ thì bán tài nguyên, bán
rừng bán biển, thì vay nợ đời sau con cháu trả.
Bộ máy khổng lồ ấy đã làm gì cho dân cho nước? Lạm phát tăng, GDP
giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, phúc lợi xã hội giảm, tỷ lệ người nghèo
tăng, tội phạm tăng. Một bộ máy quá đông, đông như “quân tàu ô”. Nguy
hại hơn cả là trong bộ máy đó có đội ngũ nắm quyền lực bao trùm đất nước
nhưng lại có “Một bộ phận không nhỏ đã suy thoái chính trị, thoái hòa
đạo đức, lối sống” đã thành “một bầy sâu ăn hết phần của dân”.
Thượng bất chính hạ tắc loạn, trên thối một, dưới thối mười, nạn mua
chức mua quyền lấy lương, ăn bổng, tạo cửa tham những, bỏ bê công việc
tràn lan như nấm.
Ông Nguyễn Thế Trung, Phó trưởng Ban Dân vận Trung ương nói: “Có nơi
tỏ ra chủ quan nói 70-80 % công chức làm việc, có nơi bi quan bảo 30%,
nhưng tỷ lệ thực tế 50 % người làm, 50% người ngồi chơi ăn lương!”.
Nhận định ấy cũng đã có cách đây hơn hai chục năm rồi. Ngày đó nguyên
Thủ tướng Võ Văn Kiêt đã tỏ ra kiên quyết xử lý nạn cán bộ “chân trong
chân ngoài” và ông nói: “Phải cải cách chế độ công chức và tiền lương,
để công chức sống được bằng lương, tận tâm làm việc!”.
Như hình như càng cải cách bộ máy càng phình ra.
Trong nhiệm kỳ X, cơ quan lãnh đạo của đảng giảm được hai ban nội
chính và kinh tế; nhiệm kỳ XI lại tái thành lập. Bởi khi tinh giảm bộ
máy, đinh vít lỏng lẻo, đảng thấy quyền lực bị lung lay, lại phải gia cố
thêm, và bộ máy lại phình ra. Càng phình ra càng đẻ thêm nhiều cán bộ,
và cái nghề “kinh doanh quyền lực” phát triển.
Nhiệm kỳ V của Đảng cộng sản Việt Nam có 101 Ủy viên trung ương,
nhiệm kỳ XI tăng lên gấp đôi gồm 175 ủy viên chính thức, 25 dự khuyết.
Trước kia, một Bộ nhiều lắm 3 thứ trưởng, giờ tăng hai, ba lần. Cụ
thể, Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn, Bộ công thương 10 thứ trưởng,
Bộ tài nguyên môi trường, Bộ nội vụ, Bộ xây dựng 7 thứ trưởng, các bộ
khác từ 5 đến 6 thứ trưởng. Các ban của đảng cũng không kém, trung bình
mỗi ban 5 phó ban, cá biệt có ban 9 cấp phó, các vụ thì một vụ
trưởng kèm bảy, tám vụ phó. Có những cục thuộc loại làng nhàng cũng có
đến 6 cục phó. Ủy ban Kiểm tra Trung ương thì có 6 Phó Chủ nhiệm…
Ở tỉnh Thanh Hóa có xã vài ngàn dân mà 500 cán bộ, ở Nghệ An có
phòng 3 sếp mà chỉ có một nhân viên, thậm chí có ban toàn cán bộ không
có nhân viên. Ví dụ, Sở nội vụ 31 biên chế thì 1 giàm đốc, 4 phó giám
đốc, 14 trưởng phó phòng, vị chi 19 cán bộ lãnh đạo 12 nhân viên, phòng
công chức viên chức 4 người thì một trưởng phòng, hai phó phòng một
nhân viên, phòng kế hoạch sở nông nghiêp phát triển nông thôn 1 trưởng
phòng, 6 phó phòng 2 nhân viên...
Các trụ sở đảng, chính quyền đoàn thể và các các cơ quan mấy năm gần
đây đều được xây dựng mới đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Như như ông Trần
Đình Nghiên phát biểu là: “ Vẫn chật không có chỗ cho dân len chân vì
nhiều quan quá! Nhiều quan nhưng việc không chạy, cứ ì ra, làm khổ dân”.
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thừa nhận: “Trong bộ máy chúng ta có
tới 30% công chức không dùng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô
đi tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả nào!”.
Ông Nguyễn Xuân Phúc nói như thế là vẫn khiếm tốn. Trong diễn đàn
hội nghị “Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị” tại Học viện Nguyễn
Ái Quốc 31-1- 2013 vừa qua, nhiều đại biểu nhận định số công chức “sáng
cắp ô đi tối cắp về” là 50%.
Nhưng chỉ cần dẹp đi 30% công chức “không dùng được” như Phó thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc nói, thì những công chức tử tế đã được tăng 30%
lương rồi.
Hãy dẹp bỏ cái bọn không dùng được ấy, cùng những hội, đoàn thể “ăn
theo nói leo” tự khắc đời sống công chức sẽ khá hơn và chúng ta có quyền
đòi hỏi họ làm việc tốt hơn. Nhưng, biết là khó, dù là những công chức
không làm được việc, biên chế thừa, bộ máy ồng kềnh nhưng cũng không
nguy hại bằng “bộ phận lớn trong số chức lớn to quyền” mà vơ vét tham
nhũng, trong mấy năm mà khui rỗng quốc khố hàng triệu tỉ đồng. Họ cũng
là đầu têu và đầu mối mua quan bán tước, tuyển chọn công chức để vơ vét
cho đầy tràn túi tham.
M.D