Có lẽ nhiều người thích mấy câu thơ sau đây của Ngô Kha:
con đã đi bao năm
mẹ không rời ngưỡng cửa
và nay
gió cũng tang bồng
nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu
Có cái gì lãng mạn, hào sảng và cũng bi tráng, chứa đựng nhiều ẩn ngữ
và dự báo như chính cuộc đời anh: Nhà thơ tài hoa, nhà giáo nồng nhiệt,
kẻ dấn thân tranh đấu hào hùng, chiến sĩ cho tự do, người làm cách
mạng, bị tù đày, chết vì bị thủ tiêu khi còn trẻ và cuộc chiến đấu còn
dở dang.
Tôi không quen Ngô Kha dù anh và tôi có thời gian cùng tham gia tranh
đấu ở thành phố Huế trong giai đoạn 1963-1966. Tôi kém anh gần 10 tuổi,
thời trung học không học ở Huế nên không là học trò hay đàn em của anh
như một số bạn bè cùng lứa. Thời gian tranh đấu tôi chủ yếu hoạt động
trong môi trường đại học. Tuy nhiên tính từ 1963-1975, có thể nói những
người lứa tuổi 20, 30, là thầy trò, bạn bè, lứa trước lứa sau, đều cùng
chung một thế hệ, thế hệ chiến tranh. Trong thế hệ đó, dù mất sớm, Ngô
Kha nổi lên và tồn tại như một tượng đài bí ẩn.
Về thơ ca và cuộc đời của Ngô kha đã có nhiều bạn bè, những người gần
gũi viết rất hay. Ở đây tôi muốn có một cách tiếp cận khác. Đó là từ
cuộc đời Ngô Kha, tôi muốn soi rọi lại chính mình và bạn bè cùng thế hệ,
những người đồng dáng, để giải mã một thời dấn thân mà cho đến hôm nay
vẫn còn những nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
*
Thời sinh viên, ngoài ảnh hưởng của sách vở, các giáo sư và bè bạn,
những sự việc sau đây ảnh hưởng mạnh đến suy tưởng của tôi về thời kỳ
mình đang sống.
Một hôm, cùng với nhiều người, tôi thấy một xác chết trôi dạt trên
dòng sông Hương, tấp vào gần bến Thương Bạc. Đám đông xôn xao bàn tán,
người bảo là xác Việt Cộng, kẻ bảo là dân thường và đưa ra những bình
luận trái chiều. Tôi chỉ đau đớn thấy đó là một người Việt Nam, nạn nhân
của cuộc chiến trên đất nước mình.
Nhóm sinh viên chúng tôi theo dõi và thán phục tinh thần làm việc của
mấy anh chàng lính công binh Mỹ cởi trần lái xe ủi san mặt bằng để làm
trường Đại Học Sư Phạm mới, nơi năm sau chúng tôi sẽ vào ngồi học. Cũng
nhóm sinh viên đó đã vô cùng phẫn nộ khi một đám lính Mỹ đi hành quân
về, ngồi trên xe Jeep lái bạt mạng, uống bia, la hét, ném lon vào người
đi đường và làm một ông già đạp xích lô té chổng gọng. Riêng tôi, sau đó
còn tình cờ chứng kiến một nhóm lính Mỹ tắm trần truồng trên dòng sông
bên quốc lộ 1, làm khách đi xe đò phải xấu hổ quay mặt đi và tôi cảm
thấy vô cùng nhục nhã.
Các cuộc tranh đấu mà tôi tham gia, đặc biệt cao trào Biến động Miền
Trung năm 1966, sinh viên học sinh đã làm một số việc gây chấn động:
Chiếm Đài Phát thanh Huế làm đài phát thanh tranh đấu; tham gia bắt cóc
trung tướng Phạm Xuân Chiểu; giải tỏa kẽm gai ngăn lối trên đường Duy
Tân, nơi có phái bộ MAAG của Mỹ đóng trụ sở; đốt Tòa Lãnh sự Mỹ; ra
tuyên cáo không bảo đảm tính mạng cho người Mỹ nếu người Mỹ không đến
xin lỗi vì một toán lính Mỹ đã xé khẩu hiệu “Yankee go home” do sinh
viên căng trước khuôn viên trường đại học; thành lập các Đoàn Sinh Viên
Quyết Tử đi chi viện cho phong trào các tỉnh bạn…
Tôi tham gia vào các biến động này với một nhiệt tình lửa cháy và sự lãng mạn lạ lùng.
Trong lời mở đầu phát cùng với nhạc hiệu bài Mẹ Việt Nam của Phạm Duy
trước mỗi buổi phát thanh của Đài Phát thanh tranh đấu do tôi được phân
công phụ trách, tôi viết:
“Đây là tiếng nói của những người Việt Nam gầy gò rách rưới, sinh
ra và lớn lên trong nhọc nhằn, trong chiến tranh, khốn khó, tự nhận lấy
trách nhiệm làm chủ vận mệnh của lịch sử.
Đây là tiếng nói của những người sẵn sàng chiến đấu gian khổ, sẵn sàng đổ máu và hiến dâng thân xác gầy trơ xương để làm kẻ BIẾT SỐNG, DÁM CHẾT CHO DÂN TỘC VÀ TỰ DO.
Tiếng nói này phát khởi từ một vùng sôi động nhiệt tình, luôn luôn
vang dậy lời gào thét cuồng phẫn đòi quyền sống làm người từ rất lâu
trong quá khứ.
Tiếng nói này sẽ đi qua thành phố, làng mạc, qua rừng qua biển,
đến tận mọi hang cùng ngõ hẻm để kêu gọi người Việt Nam cùng sống trên
một mảnh đất xanh xao khô héo về dựng tương lai cho đất nước này.
Tiếng nói này là lời chung của người Việt Nam trọn lịch sử khát mơ
sống thanh bình giữa đồng lúa xanh và câu hò giọng hát nhưng đã phải
trả giá bằng tủi hổ nhục nhằn suốt nhiều thế kỷ.”
Có lẽ trên thế giới không có một đài phát thanh nào có lời mở đầu cuồng nộ và lãng mạn như thế.
Khi giải tỏa đường Duy Tân, tôi cầm máy ứng khẩu trên xe phóng thanh dẫn đầu đoàn biểu tình của sinh viên:
Chúng ta đang dẫm những bước đầu tiên trên con đường chúng ta đã
khai mở. Người Mỹ đã để lại trên đất nước chúng ta nhiều dấu vết ô nhục.
Tại sao chúng ta không có quyền đi trên những con đường xanh thơm của
quê hương. Chúng ta làm chủ đất nước hay chỉ là những tên nô lệ. Chúng
ta không thể mãi khom lưng cúi đầu trước những tên ngoại quốc tàn bạo
giả dối. Chúng ta phải đứng lên chiến đấu giành lấy tự do cho dân tộc.
Bây giờ, lần đầu tiên, chúng ta rửa được vết ô nhục. Đã hai năm rồi,
chúng ta lạ lẫm sợ hãi con đường này. Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận
những vùng cấm địa của ngoại quốc trên đất nước chúng ta. Chúng ta đã
sống trên một quê hương thuộc địa. Chúng ta đã bị chà đạp. Chúng ta đòi
hỏi người Mỹ phải thay đổi thái độ. Người Mỹ đến đây với danh nghĩa đồng
minh, người Mỹ phải đến như một người bạn với thiện ý thực lòng, không
phải đến như một chủ nhân quỷ quyệt và tham lam. Chúng ta khai thông con
đường này để bảo cho người Mỹ biết chúng ta công phẫn trước sự xâm phạm
chủ quyền Việt Nam sâu xa của họ. Người Mỹ phải dừng lại trong những
giới hạn thân hữu và thiện tâm. Với đường lối hiện tại người Mỹ sẽ trở
thành kẻ thù của người Việt. Dù đất nước chúng ta nhược tiểu, chậm tiến,
chúng ta đòi hỏi tương giao bằng hữu với bất cứ quốc gia nào cũng phải
đặt căn bản trên bình đẳng. Bởi chúng ta tự trọng và tôn trọng con
người. Bởi chúng ta yêu tự do và mong ước những kết giao nhân loại đẹp
đẽ. Bất cứ hình thức thực dân ngụy trang nào chúng ta cũng nhận ra và
thù ghét. Vấn đề của người Mỹ đối với chúng ta đã quá rõ ràng. Chúng ta
đòi hỏi họ phải thay đổi tức khắc chính sách can thiệp. Chúng ta khai
thông con đường này để cảnh cáo người Mỹ và bày tỏ quyết tâm của chúng
ta.
Lúc Đoàn Sinh Viên Quyết Tử 3 vào Quảng Tín bị một tiểu đoàn lính
Biệt chính bao vây trên đường phố, chúng tôi tay không đi diễn hành
trước mũi súng, hát những bài ca yêu nước.Với tư cách Đoàn trưởng, tôi
dùng loa nói với họ:
Thưa tất cả các bạn. Thưa toàn thể đồng bào. Chúng ta đều là người
Việt Nam. Chúng ta đều là họ hàng anh em. Không có lý do nào và không
ai có thể bắt chúng ta trở thành thù nghịch. Trước khi là tín đồ một tôn
giáo, đảng viên một đảng phái, chúng ta, bất cứ ai, cũng phải là người
Việt Nam trước đã. Bởi chúng ta có cùng một lịch sử, một quê hương, một
giòng máu. Bởi chúng ta cùng sướng, cùng khổ, chia ngọt sẻ bùi qua bao
nhiêu biến cố trong một thời gian dài lâu bền vững. Chúng ta có với nhau
quá nhiều ràng buộc. Nhất là trong lúc này. Đất nước đang bị tàn phá
hủy hoại trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Không ai trong chúng ta không
lo âu hãi hùng trước viễn tượng kinh hoàng sắp xẩy đến. Chúng ta phải
chung lưng đấu cật để sống còn hay chúng ta chia rẽ nhau để tự sát.
Chúng ta giết nhau nghĩa là chúng ta giết anh em bạn bè, bà con mình,
nghĩa là chúng ta tự giết. Trong chúng ta đâu có ai nỡ làm như thế. Điều
đó chắc chắn. Không ai nỡ lòng và không ai làm thế được.
Dĩ nhiên chúng ta có nhiều tiểu dị về chính kiến, về tôn giáo, về
hoàn cảnh cá nhân, nhưng chúng ta có đại đồng. Bởi chúng ta yêu tự do,
thù ghét nô lệ và áp bức, khao khát sống yên vui thanh bình nên chúng ta
không vì tiểu dị mà xóa bỏ đại đồng. Tiểu dị là sông. Đại đồng là biển.
Và sông nào cũng chảy về biển cả. Người Việt nào cũng là người Việt. Có
người Việt nào không là người Việt không. Chúng ta phải xóa bỏ hận thù
lầm lẫn để nắm tay nhau vui cười trò chuyện.
Lính hai bên đường vẫn im lặng đứng nhìn nhưng nét mặt họ đã dịu.
Súng đã buông xuống hay khoác lên vai. Một vài người mệt mỏi ngả mình
trên bực cửa. Vài người tựa bên thân cây cúi đầu. Có cái gì xao xuyến,
dâng lên khắp nơi. Một tiếng thở e dè nào đó sau cánh cửa. Một cánh tay
buông thõng, một bắp thịt căng thẳng duỗi dài. Không gian chùng xuống,
loãng ra. Đoàn sinh viên vẫn đều bước. Họ quay lại đi lần thứ hai trên
con phố chính. Họ hát bài ca của chính họ đặt ra:
” Tôi đi về Quảng Tín, qua bao ngày chinh chiến, người dân tôi đổ mồ hôi, xương máu rơi…, không hết lời.
Đường về làng tôi hư, đồng ruộng vườn tôi hoang, nói cùng tôi, ai ơi nói cùng tôi, tương lai còn có gì?
Gặp một người thân yêu. Gặp ngàn người thân yêu. Nói cùng tôi, ai ơi nói cùng tôi, ai ơi còn nhớ gì ?
Quảng Tín vùng lên, Quảng Tín vùng lên…”
Đoàn sinh viên mắt ngời sáng, hát say mê, bước đi say mê, trước mũi
súng. Và mũi súng đã hạ xuống. Vì súng cầm trên tay, tay trên thân thể,
thân thể có một con tim. Và con tim đã rung động bàng hoàng.
Năm 1967, sau khi phong trào tranh đấu bị đàn áp, tôi bị bắt giam hơn
nửa năm cuối của đại học. Trong Trại Tạm Giam của Trung Tâm Thẩm Vấn,
tôi nhìn qua cửa sổ, ngưỡng mộ một cách tuyệt vọng cô gái trẻ xinh đẹp
mặc áo lụa vàng, dép quai nhung, tóc bay bay trong gió, hàng ngày đi làm
cho một cơ quan Mỹ gần đó. Một thời gian sau tôi quyết định không dõi
nhìn cô nữa vì trong tôi đã bắt đầu cháy lên ngọn lửa thiêu xiềng hủy
xích. Tôi kết bạn với một du kích bị tù đã 3 năm, được trả tự do nhưng
chưa được về vì địa phương không nhận. Anh nói: “Cần gì ai nhận. Cứ ra
khỏi cánh cổng nhà tù là hổ đã về rừng”. Chúng tôi trò chuyện rất nhiều
và khi chia tay vì anh bị chuyển đi nơi khác, tôi chỉ có nửa chiếc khăn
mặt chia đôi với anh làm kỷ niệm và cảm giác sẽ là một chia ly vĩnh viễn
hoặc bi kịch hơn, một lúc nào đó, chúng tôi đối diện nhau nơi một bìa
rừng, hai bên đều cầm súng, đạn đã lên nòng.
Tôi viết bài thơ xuôi sau đây sau nhiều ngày nhìn thấy một trường học bên ngoài trại giam qua khung cửa sổ bé tí có song sắt :
Đoản ca trại giam và trường học.
1* Các em đứng ở ngoài kia, áo xanh áo đỏ áo hồng.
Trời cuối đông không mưa, gió heo may thoang thoảng chớm vị mùa xuân trở
mình. Tôi đứng ở đây nhìn các em, qua một hàng rào song sắt, qua một
tường thành mọc đầy thép gai rét ẩm, qua một ao hoa bèo hoa súng bùn
lầy, đến con đường các em đang đứng. Tôi không nghe thấy gì nhưng tôi
biết chắc các em nói chuyện vui đùa, chuyện học trò, chuyện tình yêu,
chuyện người này kẻ khác.
2* Tôi nhìn thấy và nghĩ về các em một cách thật sôi
nổi và lặng thinh. Chắc chắn các em không hay biết gì. Chắc chắn các em
không hề nghĩ tưởng rằng tôi có mặt. Khoảng không gian ngăn cách tôi và
các em có như một tình cờ vô nghĩa. Chỉ có sự xôn xao từ tôi khởi đi
rồi mất hút trong vùng gió hắt hiu. Tôi thấy mình chôn chân và mọc rễ ở
đây, sau hàng chấn song, và tầm mắt, tầm nghĩ tưởng vươn đi như một khát
vọng. Áo và tóc của các em rung rinh uyển chuyển như áo và tóc cô bé
tôi yêu, như áo và tóc bao nhiêu đứa bé gái khác đang đi trên đường phố.
Tôi không được nhìn gần mặt nhưng tôi thấy rõ các em mắt sáng môi hồng,
các em dáng thanh mai dịu hiền.
3* Sau lưng các em là ngôi trường học xinh xắn, gọn
gàng, cửa sổ sơn xanh, bờ tường quét vôi trắng. Tôi không nghĩ đó là
trường Đồng Khánh, Quốc Học, Bồ Đề, Nguyễn Du. Tôi chỉ nhận ra ngôi
trường thấp thoáng sau hàng phượng vĩ xanh mầu lá thắm, nơi các em đang
bình an trong tuổi thơ, nơi tôi đã bình an một tuổi thơ thuộc về quá
khứ.
4* Các em đứng đó rồi các em vô tình bỏ đi khuất sau
một dãy phố. Tôi chợt thấy ngơ ngác bàng hoàng. Tôi chợt thấy mất đi
thật thảng thốt bóng dáng của một thương yêu hạnh phúc vô vàn. Ngôi
trường vẫn lặng lẽ, con đường vẫn im trôi không lời không tiếng.
5* Người lính gác ra đứng tiểu ở bờ tường thép gai
khi tôi vừa mất các em ở ngoài tầm mắt chới với. Tôi quay mặt vào bên
trong, ánh sáng bóng tối nhập nhòa chập choạng. Mười mấy người ốm yếu
xanh xao nằm ngồi lố nhố im hơi không cười không nói. Có phải chúng tôi
vào đây để các em được vui đùa ca hát. Có phải chúng tôi la liệt ho hen
trên sàn nhà ẩm ướt để các em được cắp sách bước chân chim sẻ đến
trường.
6* Chung quanh các em, chung quanh chúng tôi , chung
quanh chúng ta là biên giới rừng núi bãi cát thép gai sắt máu khói lửa,
không như đường dấu cộng các em vẽ trên bản đồ. Quê hương không còn là
bình nguyên xanh tươi, thành phố phồn hoa, cao nguyên hiền lành, sông
ngòi quanh co trù phú. Quê hương đã mọc đầy loài dây leo mắt gai lởm
chởm, quê hương là trận địa tàn sát đồng bào, quê hương là bar-
restaurant xanh vàng đỏ tím.
7* Các em là người Việt, chúng tôi là người Việt.
Các em ngây thơ vui đùa, chúng tôi tù đày cằn cỗi. Rất ít kẻ tự nguyện
làm phân bón một cách khôn ngoan sáng suốt.
Tôi rời chấn song và viết những điều này bên cạnh mấy thùng nước tiểu bốc mùi khai nồng nặc.
8* Mỗi sáng mỗi chiều tôi vẫn tiếp tục ra đứng ở cửa
sổ vịn song sắt và không ngớt nghĩ tưởng về các em. Liên hệ giữa tôi và
các em trở nên keo sơn thắm thiết khó lòng dứt bỏ. Tôi vẫn tự coi mình
như một người anh dù thực sự tôi hơn các em không bao nhiêu tuổi. Tôi đã
mất tuổi thơ, đã trưởng thành, đã trở nên già, nên cằn cỗi trên nhiều
phương diện. Chỉ có nhiệt tình là vẫn còn nhưng thật trầm, thật thao
thức.
9* Tôi vừa nhìn các em qua hình dây thép gai ô vuông
méo mó dựng trên bức tường rêu mốc loang lỗ. Buổi sáng các em đi học về
lẻ loi một vài người, mỗi bước chân các em di chuyển qua một ô vuông
thép gai chiều ngang trong khi những ô vuông chiều dọc vẫn tiếp tục đan
lên các em thành đường hằn gai nhọn qua đầu qua thân qua ngực. Tôi nhìn
các em như người thợ vẽ nhìn bức chân dung có gạch ô vuông để vẽ lại,
nhưng ô vuông của tôi thì xô lệch gai nhọn rét rỉ, nhưng chân dung của
các em thì hiền hòa, thì tuổi trẻ, thì bình an hiếm hoi của quê hương.
10* Tôi nhìn các em qua phạm trù của tôi, thứ phạm trù thuộc loại ô vuông thép gai và lỗ tròn ổ khóa.
Trước mắt tôi không còn khoảng không trong suốt để nhìn thẳng nhìn
rộng nhìn xa nhìn dài. Chỗ đứng của tôi không có cơ hội để nhìn gần
nhìn sát nhìn sâu vào môi vào mắt vào châu thân.
Quê hương đã dành cho tôi, cho nhiều người khác chỗ đứng mới. Tôi
muốn xứng đáng, quả thật xứng đáng với chỗ này tù đày rách rưới. Các em
biết không?
11* Buổi sáng vẫn còn mùa đông thật cuối, thật sau cùng.
Ngọn gió heo may đã giảm bớt chất nồng vị buốt và mùa xuân khởi
lên thật mong manh đâu đó. Các em xuất hiện ở cổng trường, tiếng cười
đùa bay lên thật cao thật xa thật trong suốt. Tôi thấy mình đau nhói ở
ngực ở tim ở linh hồn xác thịt. Niềm đau nào chợt đến thấm vào tôi như
nước đi vào cát khô sa mạc, mà tha thiết mà nồng nàn mà nhức nhối mà ham
mê. Tôi yêu các em biết chừng nào.
12* Quê hương chỉ còn có tuổi trẻ. Tuổi trẻ đang vỡ
bờ nơi các em và hiện tại tương lai đang đưa các em vào nơi lâm nguy vô
phương cứu chữa. Căn bệnh đã tràn lan khắp nơi với hàng trăm thứ vi
trùng bên ngoài bên trong chia nhau đục khoét. Chúng tôi đã nỗ lực để tự
cứu và thề sẽ đi đến cùng đường dù bằng tù đày xương máu.
Và tôi cũng đã viết một lá thư tỏ tình với nữ giáo sư Anh văn, phu
nhân của giáo sư khoa trưởng. Khi ra tù đi học lại, giờ đầu tiên tôi
trao cho nữ giáo sư của mình lá thư, trong đó có đoạn:
“Đối với tôi chị thật yếu đuối. Tôi muốn nâng đỡ thân hình mảnh
mai trên bước đi xiêu đổ của chị. Tôi muốn gỡ cặp kính để hôn lên đôi
mắt thông minh đầy trí tuệ. Tôi muốn uống nuốt trên môi chị những âm
thanh ngọt ngào và lảnh lót như tiếng chim rừng buổi sớm. Đối với tôi,
chị chỉ là một phụ nữ đáng yêu và đáng ngưỡng mộ. Lẽ nào tôi không được
bày tỏ tình cảm của mình chỉ vì chị là giáo sư đứng trên bục giảng và
tôi là một sinh viên.
Trong bóng đen tù ngục này, đêm nay hình ảnh chị ngời sáng như một
vì sao sau song sắt, rọi vào tâm hồn tôi một chút ánh sáng xanh mờ
huyền ảo làm tôi nhẹ lòng.”
Cuối năm học 1966-1967 tôi may mắn cũng được tốt nghiệp ra trường.
Tôi chọn nhiệm sở là một tỉnh cao nguyên xa xôi, nơi tôi chỉ biết tên
trên bản đồ vì lắng nghe “tiếng gọi nơi hoang dã”. Từ đó tôi ít khi về
Huế.
*
Từ trường hợp Ngô Kha, soi rọi bản thân, đối chiếu bạn bè, tôi nghiệm ra thế hệ chúng tôi là một thế hệ dấn thân bi tráng.
Dĩ nhiên là khởi đi từ sự trong sáng và nhiệt tình tuổi trẻ trong một
tình huống sục sôi. Tuổi trẻ không vì những lợi ích hẹp hòi gì cho
riêng mình ngoài khát vọng thể hiện bản thân. Đây là tuổi trẻ có trí
thức, có ý thức chứ không phải là những con thiêu thân mù quáng.
Lòng yêu nước là một tình cảm tự nhiên và được hun đúc qua những bài
học lịch sử từ tấm bé, phải làm cái gì chứ không thể ngồi yên khi đất
nước mỗi ngày rỉ máu, tan hoang vì bom đạn.
Tinh thần phản kháng, nổi loạn là đặc điểm chung của tuổi trẻ càng dễ
được kích động lên trong bối cảnh xã hội có nhiều bất công, áp bức và
niềm đau do cuộc chiến gây ra.
Đi cùng với lòng yêu nước là khát vọng hòa bình. Biết bao giấc mơ về
một ngày mai quê im tiếng súng đã được vẽ nên trong thi ca, nhạc, họa
của những người trẻ tuổi luôn đau đáu niềm đau chung của đất nước. “Mai
có hòa bình”, bài thơ cuối cùng của Ngô Kha là một trong những tác phẩm
đó của thi sĩ tài hoa, đầy hình tượng ẩn dụ và một tình cảm tha thiết:
Tin em trao về hồng như nụ chín
Mai có hòa bình khác thể yêu thương
Đường dù ngái đi rừng chen lớp lớp
Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu
Trời có tơ đan nắng hanh vườn cũ
Áo thô bạc màu hẹn buổi vinh quy
Chim vỗ cánh bay theo đàn tình tự
Xứ mẹ con về góp hội trùng tu
Khát vọng hòa bình là phải chấm dứt chiến tranh. Cuộc chiến này mang
tên gọi gì, do ai gây nên, ai đứng đằng sau, thế hệ này đương nhiên phải
nghĩ đến. Nghĩ thế nào và nghĩ tới đâu còn tùy cá nhân nhưng vấn đề nổi
bật nhất, gần gũi và trực tiếp nhất là sự can thiệp của người Mỹ vào
chiến cuộc. Sự có mặt của nửa triệu lính Mỹ và đồng minh, các loại chiến
xa, vũ khí, nhất là các loại máy bay chiến đấu trút xuống hàng vạn tấn
bom đạn trên ruộng đồng và con người Việt Nam, mà mỗi ngày người dân có
thể nhìn thấy và cảm nhận, đã làm dấy lên tinh thần chống Mỹ như một
tình tự dân tộc đương nhiên.
Công bằng mà nói tất cả những điều trên có được cũng là nhờ một không
gian tự do nhất định của xã hội Miền Nam thời đó, tự do suy tưởng và
hành động trong một chừng mực để tuổi trẻ có thể bung phá thể hiện mình,
trong những hoạt động mang đầy tính lãng mạn cách mạng. Nhưng không
gian tự do này của một chế độ dân chủ sơ khai còn rất nhiều hạn chế và
chưa phải là mẫu mực cho tuổi trẻ và dân tộc chấp nhận.
Tuy nhiên, tất cả đều nằm trong “gọng kềm lịch sử”. Không ai, thời kỳ
nào thoát khỏi gọng kềm lịch sử. Nhưng thế hệ tuổi trẻ này đúng là gặp
vô cùng khó khăn. Các lực lượng chính trị điều hành đất nước đã thành
hình từ trước, cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt, các thế lực quốc tế
chi phối mạnh mẽ. Những người trẻ tuổi không có gì cả ngoài tuổi trẻ và
khát vọng của mình. Về sau này, với độ lùi và thực tiễn lịch sử tiếp
diễn, nhiểu người phê phán tuổi trẻ dấn thân thời đó thiếu viễn kiến
lịch sử. Nhưng ai có thể có viễn kiến chính xác, ngay cả những người
lãnh đạo có quyền lực trong tay, trên phạm vi cả nước hay toàn thế giới?
Một đại học Huế, một thành phố Huế, một phong trào sinh viên học sinh
tranh đấu nơi một địa phương, trong một giai đoạn, thật ra cũng rất nhỏ
nhoi trong toàn cảnh cuộc chiến kinh hoàng trên khắp đất nước và cuộc
tương tranh giữa các thế lực trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên trong tâm
tưởng thế hệ dấn thân, đây vẫn là những ngày bão lửa bi hùng cao cả và ý
nghĩa dấn thân của thế hệ này lại có thể vượt thời gian đến tương lai
khi đất nước luôn cần đến những trái tim trẻ trung nóng bỏng.
Sau và ngay trong thời kỳ dấn thân, thế hệ trẻ này đi theo nhiều
hướng. Trở về học hành và cuộc sống đời thường, thành đạt hay thất bại
tùy phận người. Một số gia nhập quân đội hay bộ máy hành chính Việt Nam
Cộng Hòa, sau này đứng về phía chiến bại, khốn cùng trong các trại cải
tạo hay ra được nước ngoài. Một số tham gia Mặt Trận Giải Phóng hay đảng
Cộng Sản, đồng hành với chế độ mới.
Từ ngày ấy, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, đất nước cũng gập ghềnh
quanh co trên chặng đường gian khó đi tới tương lai. Những nhận định và
phê phán về một thế hệ dấn thân vẫn còn nhiều khác biệt từ quan điểm của
người nhìn nhận. Nhưng dù sao đi nữa, gác qua một bên những định kiến,
hận thù và quan điểm chính trị, thế hệ dấn thân này vẫn thể hiện phẩm
chất tinh hoa của tuổi trẻ trí thức Việt Nam, mà nếu được phát huy đúng
đắn, những phẩm chất này sẽ làm nên đất nước.
Nếu Ngô Kha còn sống đến hôm nay anh sẽ nghĩ gì và làm gì? Anh đã
“theo gió tang bồng”. Hi vọng thế hệ sau và những người còn sót lại
trong thế hệ anh sẽ tìm ra câu trả lời giả định cho anh và câu trả lời
đích thực cho chính mình.
Đà Lạt, kỷ niệm 40 năm ngày mất của Ngô Kha, tháng 1/2013.
© Tiêu Dao Bảo Cự
© Đàn Chim Việt