Nếu tôi là trưởng ban sửa đổi Hiếp pháp 1992 tôi sẽ đề nghị
ngưng lại cho đến khi trong Đảng thực sự biết rõ mình muốn duy trì mô
hình đảng chủ lập hiến như hiện nay hay muốn thiết lập ở Việt Nam một
nền cộng hòa thật sự.
Các nhà nước quân chủ phải lập hiến khi nhà vua bị các tôn giáo, lãnh
chúa... buộc phải chia sẻ quyền lực. Các nhà nước đảng chủ phải lập
hiến vì muốn tạo ra cái vỏ bọc cộng hòa cho sự toàn trị của mình. Nếu
Đảng cộng sản Việt Nam muốn tiếp tục chế độ chính trị như hiện nay thì
cách khôn ngoan nhất là cứ giữ Hiếp pháp 1992 vì nó vẫn đang làm tốt vai
trò "phông màn" cho Đảng.
Sẽ là một sai lầm chính trị (của Đảng) nếu sửa đổi hiến pháp không
phải vì cải cách mà chỉ để tự trấn an. Khi lực lượng vũ trang đã khẩu
hiệu "chỉ biết còn Đảng, còn mình" mà vẫn không hết sợ hãi thì lẽ ra
Đảng phải sửa cái gốc là trao quyền lực cho dân. Bảo vệ sự cầm quyền của
Đảng mà bằng cách hiến định lòng trung cho quân đội và cố thủ trong
điều 4 như một thứ lô cốt thì chỉ gây ra tranh cãi về tính hợp hiến của
đảng độc tôn và khiến dân chúng nghĩ rằng Đảng coi mục tiêu cầm quyền
cao hơn chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Nếu chỉ quan tâm tới việc phân chia quyền lực thì không cần sửa hiến
pháp. Quyền lực lâu nay vẫn được phân chia một cách bất thành văn và phe
nhóm thường giải quyết tốt hơn hiến pháp. Vấn đề là tại hội nghị trung
ương sắp tới ông Nguyễn Bá Thanh có đủ phiếu vào Bộ chính trị, ông Vương
Đình Huệ có trở thành bí thư trung ương Đảng hay không? Ông Nguyễn Bá
Thanh rồi sẽ chọn con đường đi vào lịch sử như một bao công, hay với
không ít tỳ vết hiện nay, sẽ bắt tay với Thủ tướng đương nhiệm, quay
lưng với những người đã từng nuôi kỳ vọng?
Nếu nhận ra đây là cơ hội chính trị thì đừng vội vã, hãy ngồi lại với
nhân dân, hình thành một bản hiến pháp có thể thiết lập một nền cộng
hòa, trên nguyên tắc: một chính quyền không phải do dân thì không thể là
của dân và không thể hy vọng chính quyền đó sẽ vì dân được. Với quyền
lập hiến, nhân dân phải tham gia với tư cách là người quyết định chứ
không phải "khách" mời "góp ý" như Đảng đang làm.
Ủy ban sửa đổi hiếp pháp, vì thế, phải thay đổi quy trình làm việc
của mình. Thay vì cắm đầu viết lách, bước một, chuẩn bị những vấn đề
phải trình Quốc hội biểu quyết đưa ra trưng cầu dân ý. Điều phải trưng
cầu dân ý đầu tiên là Việt Nam nên chọn mô hình cộng hòa đại nghị (nơi
quốc hội bầu ra chính phủ và nguyên thủ quốc gia) hay cộng hòa tổng
thống (nơi cử tri trực tiếp bầu ra nguyên thủ).
Cộng hòa đại nghị thường thành công hơn ở các quốc gia đi từ nền quân
chủ lập hiến. Nơi hoàng gia, tuy không trực tiếp cầm quyền, vẫn còn uy
tín để trị vì như một biểu tượng quốc gia. Tuy các triều vua của Việt
Nam đã bị "phế từ lâu", vẫn nên hỏi xem dân chúng muốn tìm một hoàng
thân hay tự tay bầu ra tổng thống.
Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn có thể đưa điều 4 ra trưng cầu dân ý
và nếu nhân dân tán thành trong một cuộc bỏ phiếu hoàn toàn tự do thì
việc cầm quyền của Đảng sẽ thực sự vinh quang. Nếu dân muốn Đảng cộng
sản chỉ là một trong các đảng chính trị của người Việt Nam thì anh chỉ
có thể cầm quyền khi thắng trong bầu cử.
Trong tình huống đó, hiến pháp nên quy định sự khác nhau giữa ứng cử
viên độc lập với ứng cử viên được đề cử bởi một đảng chính trị. Ví dụ:
một người có thể trở thành ứng cử viên tổng thống nếu được một đảng
chính trị có cơ sở hoạt động ở tầm quốc gia đề cử hoặc có đủ một lượng
chữ ký ủng hộ nhất định (nếu là ứng cử viên độc lập).
Với một dân tộc đang có hàng triệu người sống và làm việc ở khắp năm
châu như Việt Nam, cần trưng cầu dân ý về điều kiện của các ứng cử viên:
có chấp nhận người có hai quốc tịch ứng cử tổng thống, nghị sỹ Việt Nam
hay không? Có nên đòi hỏi ứng cử viên tổng thống và ứng cử viên nghị sỹ
quốc hội phải là người sinh ở Việt Nam và sống liên tục ở trong nước 5
năm tính đến ngày bầu cử?
Chế độ kinh tế cũng cần được đưa ra hỏi dân. Tự do tư tưởng là vấn đề
phải được bảo vệ trong xã hội tương lai. Hiến pháp tôn trọng niềm tin
cộng sản của một thiểu số nhân dân nhưng dân chúng không thể trả chi phí
để nuôi "định hướng xã hội chủ nghĩa" bằng cách coi "kinh tế nhà nước
là chủ đạo". Nên trưng cầu dân ý về việc cấm nhà nước thành lập những xí
nghiệp mang tính kinh doanh (trừ các doanh nghiệp công ích và doanh
nghiệp khai thác những loại tài nguyên đặc biệt).
Hãy trưng cầu dân ý để dân chúng chọn giữa sở hữu toàn dân và chế độ đa sở hữu đối với đất đai.
Sau khi có kết quả trưng cầu dân ý, Ủy ban sửa đổi hiến pháp mới tiến
hành bước hai: thiết kế một mô hình nhà nước có khả năng bảo vệ chủ
quyền quốc gia, có thể hòa giải quốc gia, phát triển quốc gia, đảm bảo
an ninh và mang lại công lý cho người dân tốt nhất. Ủy ban cũng không
nên giấu dốt, cái gì biết thì hẵng làm cái gì không có kinh nghiệm thì
nên học hỏi, nhất là từ những mô hình nhà nước đã được loài người áp
dụng thành công. Việt Nam cần một mô hình chính trị bền vững dài lâu chứ
không phải chỉ "bay 15 phút" rồi "bỏ kho" như những chiếc máy bay Vam
mà Việt Nam đã từng tự chế.
Cách mà công an Hải Phòng đối xử với anh em ông Đoàn Văn Vươn cho
thấy, hệ thống tư pháp hiện hành không thể đảm bảo công lý, nhất là đối
với những xung đột giữa công dân với địa phương. Ngoài việc tổ chức tòa
án theo cấp xét xử (thay vì theo cấp hành chính), lực lượng điều tra
hình sự và công tố nên tổ chức thống nhất ở cấp toàn quốc gia. Cảnh sát
địa phương chỉ đảm bảo giao thông và trật tự, trị an; có thể bắt trộm,
cướp rồi giao lại cho cơ quan công tố.
Các địa phương tùy vào ngân sách và tình hình an ninh mà quyết định
số lượng cảnh sát. Không để tình trạng như Thành phố Hồ Chí Minh phải
lấy thanh niên xung phong ra điều khiển giao thông và chống cướp bằng
lực lượng từ trung ương cứu viện.
Thật là nguy hiểm nếu lực lượng công an, quân đội thay vì trung thành
với quốc gia lại trung thành với đảng phái. Đảng có thể nay tồn, mai
vong nhưng Nước thì muôn đời phải giữ. Nếu quân đội không coi nhiệm vụ
quan trọng nhất là giữ nước thì khi trong Đảng có bất đồng, quân đội mất
phương hướng, những kẻ có dã tâm lãnh thổ như Trung Quốc rất dễ thừa cơ
chiếm nốt Trường Sa bằng một cuộc chiến tranh cục bộ.
Cũng cần tách bạch hành pháp chính trị và hành chính công vụ để khi
Đảng tan rã thì chỉ có chức năng hành pháp chính trị tạm ngưng, trộm
cướp vẫn có người bắt; đèn xanh, đèn đỏ vẫn sáng ở ngã tư; người dân vẫn
có thể làm passport, đăng ký xe và sang tên nhà, đất...
Bước thứ ba, Ủy ban sửa đổi hiến pháp trình những mô hình hành chánh,
tư pháp tương thích này để quốc hội thông qua. Sau đó tới bước thứ tư
mới tiến hành cho chuyên viên thảo ra hiến pháp. Do đã trưng cầu dân ý,
hiến pháp chỉ cần 2/3 tổng số đại biểu thông qua chứ không cần đưa ra
phúc quyết toàn dân. Chỉ phải giữ nguyên tắc cái gì dân đã quyết khi
trưng cầu dân ý thì quốc hội không có quyền thay đổi.
Cũng có thể rút ra các bài học lập hiến từ Việt Nam. Hiến pháp 1946
từng được viết bởi những trí thức có tinh thần pháp quyền và bác ái, tự
do. Cho dù nó được quyết định bởi một quốc hội được bầu lên trong cuộc
tổng tuyển cử do Việt Minh kiểm soát, Hiến pháp 1946 đã được thông qua
bởi những người yêu nước và khát khao độc lập, tự do.
Tuy chưa được công bố chính thức do chiến tranh nhưng Hiến pháp 1946
đã có hiệu lực trên thực tế. Hồ Chí Minh đóng một vai trò quan trọng
trong Hiến pháp 1946, nhưng chính ông, sau khi đi dự Hội nghị 81 đảng
cộng sản và phong trào công nhân quốc tế từ Mascova trở về, đã phế bỏ
bản hiến pháp dân chủ này để thay thế bằng Hiến pháp 1959.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, Hiến pháp 1959 được dịch ra từ Hiến
pháp Liên Xô nhưng qua bản tiếng Trung nên nhiều định chế nhà nước đã
được copy một cách vội vã và không chính xác. Hiến pháp 1980 cũng copy
từ hiến pháp của các nước cộng sản Đông Âu, áp dụng nguyên si những định
chế mà ngay sau đó đã bị các nước này bãi bỏ. Không nên sợ hãi trước
những mô hình nhà nước đã được áp dụng thành công. "Nhập khẩu" mô hình
chính trị đã là truyền thống mà Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ năm
1959.
Một chế độ toàn trị thường đi đến sụp đổ hoặc tiếp tục tồn tại bằng
cách siết chặt dân chủ, tự do. Quá trình này càng kéo dài bao nhiêu thì
càng hủy hoại các nguồn lực và giá trị quốc gia tới đó. Sự sụp đổ hay sự
ngắc ngoải của chế độ đều trút hậu quả lên đầu thường dân. Chủ động cải
cách để từng bước trao mọi quyền lực cho nhân dân không chỉ là lối
thoát của Việt Nam mà còn là cánh cửa để Đảng thoát ra trong danh dự.