Phạm Thị Hoài
Từ khi tôi trở thành công dân Đức, Hiến pháp Đức đã có 10 bổ
sung, sửa đổi mà tôi không hề được hỏi ý kiến. Nhưng không chỉ riêng
tôi. Hàng xóm, bạn bè, người quen, đồng nghiệp, tất cả đều như vậy. Nhân
dân CHLB Đức chưa bao giờ được trưng cầu ý kiến về văn bản tối thượng
mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản) của mình.
Nó được soạn thảo bởi 65 vị trong Parlamentarischer Rat (Hội
đồng Nghị viện), dưới sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền quân quản
Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến II. Sau khi được thông qua với 53 phiếu
thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng Nghị viện, nó được trình cho ba
chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau khi được các Thống đốc
Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các nghị viện tiểu bang
để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó được Hội đồng
Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa Liên
bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Người dân – bốn năm
trước còn sống trong Đế chế Quốc xã với Quốc trưởng Hitler – không trực
tiếp, nếu không muốn nói là không tham dự vào quy trình lập hiến đó. Bản
hiến pháp được coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy không do ý
nguyện dân chủ từ dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ trên
xuống, thậm chí với áp đặt từ các thế lực ngoại bang.
Năm 1990, trong quy trình thống nhất nước Đức, nghị viện của các tiểu
bang thuộc Đông Đức cũ cũng phê chuẩn và gia nhập Hiến pháp này mà nhân
dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây đều không được trực tiếp biểu quyết.
Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp Đức có 59 bổ sung, sửa đổi, lần
cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một lần nào có trưng cầu ý dân [1].
Song điều đó không cản trở nước Đức, không lâu sau sự ngự trị của cả hai
chế độ toàn trị kinh hoàng của thế kỉ 20 là chủ nghĩa phát xít và chủ
nghĩa cộng sản trên lãnh thổ của mình, thành một trong những nền dân chủ
trưởng thành và ổn định nhất trên thế giới.
Hiển nhiên mỗi quốc gia có con đường lập hiến của riêng mình. Trong
cuộc thảo luận về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang diễn ra ở Việt Nam, một
trong những tiêu chí được nhấn mạnh không chỉ ở giới cấp tiến
là quyền lập hiến của người dân. Báo chí Việt Nam, cả chính mạch lẫn
ngoài luồng, tràn ngập những lời đòi hỏi, xác nhận và xiển dương nguyên
tắc mọi quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân và thuộc về nhân dân.
Trên mặt chữ, chưa bao giờ nhân dân được kính trọng, được gửi gắm nhiều
tin cậy, được phó thác nhiều quyền lực như thế. Nhiều đến mức không thể
không nghi vấn. Trong thực tế, những khái niệm trừu tượng này được thực
hiện qua những hình thức và cấp độ khác nhau của trưng cầu ý dân (referendum).
Song trong những điều kiện hiện có, tôi rất hoài nghi giá trị của một
cuộc trưng cầu như thế tại Việt Nam. Thậm chí tôi còn cho rằng thay vì
thực hiện chức năng thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa xã hội lên phía
trước, nó có nhiều nguy cơ kéo giật lùi tiến trình ấy về phía sau. Một
phát đạn ngược nòng. Điều này không liên quan gì đến lập luận nhảm nhí
rằng dân trí chưa cao thì chưa thể thi hành dân chủ, bởi lẽ một cuộc
trưng cầu ý dân tại Việt Nam, đặc biệt ở hình thức cao nhất là toàn dân
phúc quyết hiến pháp, có thể là tất cả mọi thứ, chỉ trừ là một hành động
thực thi dân chủ.
Ai nắm trong tay mọi phương tiện có thể khuynh loát vô giới hạn tất
cả các khâu trọng yếu của một cuộc trưng cầu ý dân trong thời điểm hiện
tại, từ chuẩn bị nội dung cần đưa ra trưng cầu, tổ chức thông tin và
quảng bá, tổ chức và giám sát bỏ phiếu, tổ chức và giám sát kiểm phiếu,
đến đánh giá, công bố và thực thi kết quả? Ai có thể điều khiển, nhồi sọ
và lừa mị dư luận bằng bộ máy tuyên truyền khổng lồ của mình? Ai có thể
đe dọa cử tri bằng guồng máy đàn áp khét tiếng của mình? Ai có thể mua
những lá phiếu bằng đủ thứ hứa hẹn ban phát ưu đãi và thậm chí bằng đất
tươi và tiền mặt? Ai có thể tùy tiện chế biến, diễn giải và sử dụng kết
quả bỏ phiếu theo ý mình? Những người đưa ra kiến nghị trưng cầu ý dân đã không quên đòi hỏi đi kèm, rằng nó phải được “tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới“.
Nhưng chỉ cần đặt tiếp một số câu hỏi đơn giản hơn – Báo giới nào?
Người dân nào được chọn trên cơ sở tiêu chuẩn nào vào vai giám sát? Minh
bạch theo đánh giá của ai?… – là có thể thấy rằng hiện tại, một cuộc
trưng cầu đáp ứng được những đòi hỏi ấy là hoàn toàn bất khả thi.
Thêm vào đó, đa số dân chúng Việt Nam là những người đã có hơn một
nửa thế kỉ để rèn luyện tinh thần cầu an và thụ động như những kĩ năng
sống căn bản. Hai chục năm gần đây họ còn tích lũy thêm một kĩ năng đầy
tinh thần thời đại khác: bàng quan với mọi vấn đề không trực tiếp đụng
chạm đến quyền lợi của mình và gia đình. Họ cũng dễ bị tha hóa và đã bị
tha hóa sâu sắc như chính những người cai trị họ. Tôi không có những con
số cụ thể – tất nhiên, không ai có cả – nhưng theo cảm nhận riêng thì
ước chừng 20% cử tri Việt Nam là những người từ trung thành đến trung
thành tuyệt đối với chế độ hiện tại; 30% là những người có thể không ưa
mặt này hay mặt khác của chế độ đó, ít hay nhiều có những bất mãn hoặc
bất bình cục bộ, song hợp tác và gắn bó với chế độ về nhiều phương diện –
kể cả phương diện sổ hưu. Vâng, vì sao không? – và không có nhu cầu
thay thế nó bằng một chế độ nào khác mà họ chưa từng biết hay chỉ nghe
nói loáng thoáng; 40% là những người không biết và không cần biết mình
đang sống trong một thể chế nào, miễn sao cuộc sống thường nhật của mình
được bảo đảm; 8% là những người mong muốn thay đổi thể chế chính trị
bằng phép mầu từ lột xác của Đảng Cộng sản và liều thuốc thần tự cải
cách của chế độ. Những người chủ trương thay thế toàn bộ hệ thống Đảng
trị và công an trị hiện tại bằng mô hình dân chủ tự do phương Tây chiếm
vỏn vẹn 2% còn lại – tức trên dưới 1 triệu người, tính một cách hào
phóng, con số trong thực tế có thể khiêm tốn hơn rất nhiều.
Từ những hoàn cảnh ấy, không cần phải là một nhà tiên tri cũng có thể
biết trước kết quả của một cuộc trưng cầu ý dân tại Việt Nam. Không có
gì dễ dàng và khôn ngoan hơn cho chính quyền Hà Nội, nếu nó cho diễn
ngay lập tức một màn kịch như thế. Trong khói lửa của cuộc nội chiến,
đầu năm ngoái Tổng thống Syria Assad đã thành công rực rỡ với nước cờ
toàn dân phúc quyết hiến pháp, trong khi phe đối lập nỗ lực ngăn cản sự
kiện này. Gần 90% cử tri tán thành bản hiến pháp mới, trong đó thậm chí
nguyên tắc đa đảng được xác nhận. Nhà độc tài lại hoàn toàn chính danh.
Trước đó, chính quyền không thể gọi là dân chủ ở Maroc cũng nhanh chân
thoát khỏi áp lực của Mùa Xuân Ảrập bằng cách mở vài cái van phụ trong
hiến pháp sửa đổi và có thể hài lòng với 98 % số phiếu thuận. Trưng cầu ý
dân ở Ai Cập thì đem lại cho đất nước này một hiến pháp thần quyền, với
nền tảng là Luật Hồi giáo Sharia, bất chấp sự cự tuyệt của chính các
thẩm phán và các nhóm đối lập. Xa hơn một chút trong lịch sử, cuộc trưng
cầu ý dân duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam năm 1955 phế truất Quốc
trưởng Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống đã không tặng cho
người dân miền Nam một thể chế dân chủ đáng mơ ước. Xa hơn chút nữa,
cuộc biểu quyết của toàn dân (Volksabstimmung) năm 1934 tại Đức
với gần 90% số phiếu thuận đã đặt một nhân vật lên bệ phóng, để đẩy cả
lịch sử đất nước này lẫn lịch sử thế giới vào một chương cực kì đen tối:
Adolf Hitler.
Bao nhiêu ý dân thì đủ đảm bảo một hiến pháp tốt đẹp?
Tôi không ủng hộ đề nghị tổ chức toàn dân phúc quyết hiến pháp tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
© 2013 pro&contra
_____________
[1] Thậm chí đa số dân chúng Đức còn không biết rõ hay không quan
tâm điều gì được bổ sung, điều gì được sửa đổi. Thái độ đó có những cơ
sở mà tôi sẽ đề cập trong một dịp khác.