Lưu Hà Sĩ Tâm
Hệ thống chính trị ở nước ta tồn tại với nhiều nghịch lý lớn,
khiến toàn dân phải sống trong môi trường đầy rẫy các tổ chức hình thức,
hàng giả và hàng giả vờ. Chỉ có lập nên Hiến pháp mới thật sự của dân
mới là lối thoát.
Tuổi thơ có cái hạnh phúc là được người lớn cho quà gì cũng
sung sướng, cho được hưởng dịch vụ gì thì cũng khoái chí lắm (như được
đi tắm biển ở bãi tắm, nghỉ trong khách sạn…), không cần biết các
hàng/dịch vụ ấy có chất lượng hay không, cứ đến lớp khoe vung vít với
bạn bè. Ngoài giờ đến lớp, chúng chơi đồ hàng với nhau, đứa này giả vờ
làm bà, đứa kia giả vờ là cháu…, bà cháu giả vờ nhưng lại quan tâm và
chăm sóc nhau rất thật, rất chu đáo… nên chúng chơi cực kỳ say sưa,
chúng chưa cần gọi các trò chơi ấy là đóng giả. Nhưng lớn lên theo năm
tháng, con người ta mới có cái ý thức về chất lượng và tính hợp pháp của
hàng hóa hay dịch vụ, nên bên cạnh niềm vui mua sắm và thụ hưởng, có
khi còn buộc phải trải qua các cảm giác phiền muộn, bực tức, cáu giận,…
với nhiều cung bậc khác nhau, khi không may phát hiện mua phải hàng giả,
hàng chất lượng kém và trở thành nạn nhân của những người làm ra chúng.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, một món hàng hóa hay một dịch vụ
(gọi chung là hàng) được coi là giả khi: (i) dùng thương hiệu của cơ sở
sản xuất khác để mưu lợi, (ii) bị cố ý làm ra để bán mà không đạt các
chỉ tiêu kỹ thuật/chất lượng tương ứng với giá bán. Đối với người mua
phải hàng giả, thiệt hại rõ ràng về nhiều mặt: về kinh tế, về sức khỏe,
về tâm lý, về thời gian,… Nước ta trước nay đã có các tổ chức có chức
năng liên quan đến quản lý và giám sát chất lượng hàng hóa/dịch vụ, như:
cục sáng chế, cục sở hữu trí tuệ, cục/vụ/phòng quản lý thị trường, hội
bảo vệ người tiêu dùng, cảnh sát kinh tế,… Tuy vậy ở nước ta, so với các
nước khác về khía cạnh này, nhà sản xuất/người bán được dễ thở hơn và
người tiêu dùng bị ngột ngạt hơn. Người sản xuất/người bán dễ thở hơn,
không phải chỉ vì chịu sự quản lý lỏng lẻo từ các tổ chức quản lý nhà
nước nói trên, mà còn vì việc dùng tiền rất dễ và rất hiệu quả để “bôi
trơn”, nhất là cần trốn tội khi bị thanh tra, kiểm tra. Họ biến cơ sở
sản xuất của họ thành cơ sở sản xuất giả hiệu, nghĩa là núp bóng cơ sở
sản xuất hàng thật để làm hàng giả. Các tổ chức quản lý nhà nước, khi đã
nhận tiền “bồi dưỡng” rồi, mặc nhiên nhắm mắt cho cơ sở giả hiệu tồn
tại. Thế nên ở ta hàng giả tràn lan khó kiểm soát, tất cả hậu quả đổ lên
đầu người tiêu dùng. Phải thừa nhận điều cay đắng nhất khi mua phải sản
phẩm/dịch vụ giả: hỏi trời – trời không biết, hỏi đất – đất không hay.
Người dân chứng kiến những tình huống ấy, thương nhau, nhưng bất lực vì
không giúp gì được nhau.
Mặt khác, con người ta cũng còn chủ động tạo ra hoặc đi mua các hàng
hóa/dịch vụ không thật, tức là “giả” kiểu khác, mà cả người mua và người
bán cùng vui. Có thể có chút hài hước khi gọi chúng là “hàng giả vờ”,
vì chúng được dùng thay cho hàng thật, để thỏa mãn các nhu cầu nào đó.
Có thể kể ra: đồ vàng mã, dịch vụ cúng bởi thầy cúng đểu, đồ chơi tình
dục… Hàng giả vờ ngày càng phong phú hơn ở nước ta. Chính vì hàng giả vờ
thỏa mãn cả người mua lẫn người bán, nên quản lý nhà nước về hàng giả
vờ cũng có khó khăn đặc thù.
Nhìn sâu hơn vào tổ chức xã hội với hệ thống chính trị của nước ta.
Tất cả các tổ chức dùng ngân sách nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, là để phục vụ nhân dân, có thể gọi ngắn gọn đó là các tổ chức
công. Người dân đóng thuế và hiểu rằng, một phần tiền thuế ấy là dùng để
chi cho các tổ chức công. Về thực chất, nhân dân trả tiền cho sự tồn
tại của các tổ chức công và mua sản phẩm/sự phục vụ/dịch vụ (hàng) của
chính các tổ chức này. Do vậy, nhân dân sẽ luôn ở trong trạng thái
thường trực với nguy cơ, rằng có thể đã phải trả tiền cho hàng chất
lượng kém hay hàng giả vờ từ hệ thống các tổ chức công. Quả vậy, điều đó
đã diễn ra.
Chúng ta quá quen với việc các tổ chức công, vào các dịp kỷ niệm ngày
thành lập, đọc báo cáo thành tích đã đạt được, với nhiều con số thành
tích được liệt kê ra. Chẳng hạn, các khoa/trường đại học thống kê ra đã
đào tạo được bao nhiêu cử nhân, bao nhiêu thạc sĩ và tiến sĩ,…; các viện
nghiên cứu nhấn mạnh đã nghiệm thu bao nhiêu đề tài cấp nhà nước, cấp
bộ, cấp viện,…; các tổ chức Công đoàn kể ra đã phát động được bao nhiêu
đợt thi đua, bao nhiêu bài dự thi tìm hiểu các đối tượng, bao nhiêu lần
làm công tác thăm hỏi, hiếu hỉ,…; các trung tâm hỗ trợ sinh đẻ có kế
hoạch liệt kê có bao nhiêu chị em đến đặt vòng, bao nhiêu anh em dũng
cảm đến để triệt sản nam, bao nhiêu người biết cách sử dụng bao cao su
đúng cách,… Nhờ các thống kê thành tích kiểu đó mà Viện Thi đua Khen
thưởng Trung ương xem xét để đề nghị Nhà nước trao cho họ các danh hiệu:
bằng khen, huân chương các loại, anh hùng.
Vấn đề đáng nói ở đây, là đa số kết quả liệt kê theo kiểu đó hoàn
toàn không phải là “thành tích”, mà đó đơn giản là kết quả của công
việc, là nghĩa vụ mà các tổ chức công phải trả cho nhân dân/xã hội, do
việc nhân dân đã trả tiền cho sự tồn tại của các tổ chức công và mua sản
phẩm/sự phục vụ/dịch vụ (hàng) của chính các tổ chức này. Cho nên thành
tích mà họ báo cáo là thành tích giả vờ, dùng thay cho thành tích thật.
Theo khía cạnh này, rất nhiều tổ chức công, mặc dù đã có nhận các danh
hiệu từ thấp đến cao, không những chỉ có thành tích giả vờ, mà về thực
chất là đã không làm tròn nghĩa vụ đối với nhân dân là người đã trả tiền
cho họ. Hệ lụy là chúng ta có được cả một hệ thống chính trị với nghịch
lý kỳ lạ, là vì trong đó, hiếm có tổ chức công nào không được nhận danh
hiệu nào, còn hầu hết cán bộ nhân viên hàng năm đều đạt từ “lao động
tiên tiến” đến “chiến sĩ thi đua”, vậy mà toàn hệ thống thì lại quặt
quẹo, lương trả bèo bọt, tham nhũng tràn lan, tiêu cực ngày càng bình
thường hóa, mất sức đề kháng.
Bởi thế, nhân dân cay đắng khi phải chấp nhận các sản phẩm/dịch vụ từ
các tổ chức công với chất lượng tồi nhưng được dãn nhãn mác chất lượng
cao. Chẳng hạn, các cử nhân/thạc sĩ tốt nghiệp với bảng điểm “đẹp” khi
được các giảng viên cho điểm vống lên, các tiến sĩ bảo vệ luận án được
các thành viên Hội đồng đánh giá “xuất sắc” thường trên 60%, nhưng luôn
bị thị trường lao động phê phán về chất lượng con người; các dịch vụ y
tế và các dịch vụ hành chính “ một cửa”, nhưng luôn kèm theo thái độ vô
cảm, lạnh lùng và coi thường nhân dân, hành xử thiếu trách nhiệm kèm
theo vô vàn kiểu sách nhiễu nếu không có tiền “bồi dưỡng”, nhiều khi rất
trắng trợn, khiến người dân khốn khổ. Trong rất nhiều trường hợp tương
tự như vậy, các sản phẩm/sự phục vụ/dịch vụ của các tổ chức công trở nên
đúng nghĩa là hàng giả.
Cũng xuất hiện nhiều hàng chất lượng kém, hàng giả vờ đúng nghĩa
khác, tạo ra từ hệ thống các tổ chức công. Một anh X nào đó, dễ dàng lọt
qua thủ tục thi đầu vào để trở thành sinh viên đại học tại chức/từ xa,
anh ta học giả vờ một số buổi nhất định, sau đó nhờ/thuê ai đó làm anh X
giả vờ, để đi học thay. Sau 4 năm học giả vờ như thế, anh X hiển nhiên
trở thành cử nhân giả vờ. Đây là hiện tượng không hiếm. Cho đến nay toàn
quốc đã có 7 tỉnh từ chối sử dụng hàng chất lượng kém, hàng giả vờ –
sản phẩm từ hệ thống đào tạo đại học tại chức/từ xa.
Chính các tổ chức công cung cấp cho xã hội nhiều hàng chất lượng kém,
hàng giả vờ, trong nhiều trường hợp, là các tổ chức hình thức. Chúng ta
có thể bàn về các tổ chức hình thức tầm cỡ và điển hình.
Ngày càng thấy rõ, Công đoàn Việt Nam là tổ chức hình thức. Thực vậy,
chức năng quan trọng bậc nhất của Công đoàn phải là bảo vệ quyền lợi
của người lao động. Nhưng ở ta thì không, công đoàn chỉ lo việc đi tham
quan, thăm hỏi người ốm hay sinh đẻ, hiếu hỉ, thi thoảng phát động thi
đua hay tìm hiểu gì đó, tặng hoa “chúc mừng” đại hội chi bộ và đảng viên
mới (chú ý, “chúc mừng” giả vờ thôi), chúc mừng 8/3 và bình xét danh
hiệu cho chị em. Mặc dù các việc trên là việc tốt, nhưng đó chỉ là “chăm
lo quyền lợi” chứ chưa thực sự là “bảo vệ quyền lợi”. Không có tổ chức
công đoàn thì những việc đó vẫn được thực hiện dễ dàng. Người lao động
khiếu nại hay tố cáo – công đoàn lờ đi hoặc phê phán họ. Người lao động
muốn đình công – công đoàn ngăn cản hoặc chỉ trích họ. Người lao động
muốn tham gia biểu tình yêu nước – công đoàn cảnh báo và ngăn cấm họ.
Người lao động ít khi có được cảm giác công đoàn bảo vệ họ. Công đoàn
hình thức như thế là có căn nguyên, bởi đó là tổ chức do Đảng lập ra,
nên phải là công cụ của Đảng. Do vậy lãnh đạo Công đoàn mặc nhiên đứng
về phía chính quyền, không đứng về phía người lao động.
Hiến pháp sửa đổi cần hiến định Công đoàn phải là tổ chức do
người lao động lập ra, là công cụ của người lao động, để bảo vệ quyền
lợi cho người lao động.
Ngày càng thấy rõ, Mặt trận Tổ quốc các cấp là các tổ chức hình thức.
Thật vậy, MTTQ đã không làm được việc tập hợp và đoàn kết toàn dân.
MTTQ tuyên bố đã tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, nhưng đó là cách nói sai sự thật. Vai trò MTTQ chỉ xuất hiện
mỗi khi có cuộc bầu cử. Nhưng chính vì chỉ muốn định hướng các cuộc bầu
cử ấy là theo phương thức tự hiểu là “đảng cử, dân bầu”, nên MTTQ làm đủ
chiêu trò để đạt cho được mục tiêu ấy. MTTQ cũng không hề làm được việc
gì đúng nghĩa liên quan đến giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước,
giám sát các đại biểu dân cử và chống tham nhũng. Hãy hỏi người dân
thường, sẽ được câu trả lời, họ không biết MTTQ là gì, làm gì. MTTQ hình
thức và xa cách với dân như thế, căn nguyên là do đó là tổ chức ngoại
vi của Đảng Cộng sản Việt Nam để tập hợp các đoàn thể không trực thuộc
Đảng. MTTQ là công cụ của Đảng, và do vậy lãnh đạo MTTQ mặc nhiên đứng
về phía Đảng, không đứng về phía nhân dân.
Hiến pháp sửa đổi cần hiến định MTTQ (hay tổ chức có tên gọi
khác, có chức năng tương tự) phải là tổ chức do nhân dân lập ra, là công
cụ của nhân dân, để bảo vệ quyền lợi nhân dân là tối thượng, giúp nhân
dân giám sát Nhà nước.
Ngày càng thấy rõ, Quốc hội Việt Nam là tổ chức hình thức. Thật vậy,
thành phần Quốc hội các khóa đều là kết quả của các cuộc bầu cử theo
phương thức “đảng cử, dân bầu”, được MTTQ và các cấp chính quyền làm đủ
mẹo mực để đạt cho được mục đích ấy. Biết bao câu chuyện cười ra nước
mắt xung quanh các cuộc bầu cử quốc hội của chúng ta, lặp đi lặp lại kỳ
này sang kỳ khác. Cử tri trên toàn quốc xưa nay bị đốc thúc đi bầu sát
sàn sạt trong cái ngày được nói là “ngày hội bầu cử của toàn dân”. Họ bị
đốc thúc để chính quyền và MTTQ địa phương có được con số phần trăm
“đẹp” cử tri đi bầu, để làm thành tích. Vậy nên nhiều gia đình cử đại
diện (một người) cầm tập phiếu đi bỏ cho cả nhà, với tinh thần là “muốn
bỏ cho ai thì bỏ”, vì ai trúng cử thì cũng thế thôi, vì đều là đảng viên
nên sẽ hành xử vì Đảng chứ không vì dân. Cử tri chỉ được thông báo về
kết quả bầu cử, nhưng chẳng bao giờ được nghe thấy/được biết là các tổ
kiểm phiếu là những ai và do ai bầu ra hay lập ra, vậy hiển nhiên kết
quả bầu cử đó không hợp pháp. Nghịch lý, là kết quả ấy không những vẫn
hợp pháp, mà còn “thành công tốt đẹp” và “thể hiện ý chí toàn dân”.
Nghịch lý nữa, nói Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân
Việt Nam, nhưng hơn 90% đại biểu Quốc hội lại là đảng viên Đảng CSVN,
trong khi trong số gần 92 triệu dân thì chỉ có khoảng 3 triệu đảng viên
Đảng CSVN. Vậy nên các đại biểu Quốc hội không đại diện cho nhân dân. Hệ
quả là Quốc hội đã thực hiện rất tồi các chức năng như: quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao các hoạt động của Nhà
nước, bởi quan điểm của các đại biểu quốc hội luôn bị chi phối và phụ
thuộc vào định hướng quan điểm của Đảng, bất chấp nguyện vọng người dân
ra sao.
Phi lý và nghiêm trọng nhất, vì Quốc hội là tổ chức hình thức và trở
thành công cụ của Đảng, nên Đảng tước đoạt của nhân dân quyền Lập Hiến,
vốn là quyền mặc định của nhân dân, để trao cho Quốc hội và hiến định
điều đó trong Hiến pháp 1992 (trong điều 83). Và do vậy, Hiến pháp 1992
thực chất là Hiến pháp giả vờ. Qua đó, Đảng áp đặt đường lối phát triển
đất nước sai lầm, dưới sự lãnh đạo độc quyền của Đảng.
Sự chân thành và tin cậy ban đầu của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, trong khoảng nửa thế kỷ qua, đã bị phản bội nhiều lần. Những phản
bội lớn nhất của Đảng đối với nhân dân là lập ra nhiều tổ chức hình
thức, buộc dân phải sống trong môi trường đầy rẫy hàng giả, hàng giả
vờ, do các tổ chức hình thức tạo ra, gây khốn đốn cho nhân dân.
Cánh cửa đầu tiên mở ra lối thoát là: trao lại quyền Lập Hiến cho nhân dân.
Cánh cửa thứ hai: toàn dân tham gia cuộc bầu cử, bầu ra Ủy ban
Lập Hiến Toàn quốc để đại diện cho nhân dân, gồm các cá nhân ưu tú trong
tất các các lĩnh vực, các dân tộc, các tầng lớp, các tôn giáo.
Cánh cửa thứ ba: Ủy ban Lập Hiến Toàn quốc làm việc vì dân, đưa ra
Dự thảo Hiến Pháp cơ sở (gốc), kèm các điều khoản với đa tùy chọn
(Multiple Choices/Options).
Cánh cửa thứ tư: trưng cầu dân ý, mỗi công dân đưa ra chính kiến
của mình đối với Dự thảo Hiến Pháp cơ sở (gốc) và đánh dấu vào tùy chọn
của mình cho các điều khoản.
Cánh cửa thứ 5: kiểm phiếu trưng cầu dân ý và công bố kết quả.
Với Hiến pháp mới thực sự của nhân dân, con đường đi tới tương lai
tươi đẹp của đất nước ta sẽ hiện ra thênh thang phía trước. Con đường đó
đem đến nền dân chủ cộng hòa và độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho
toàn dân, trong đó có tất cả các đảng viên Đảng CSVN và gia đình họ, vì
Đảng CSVN vẫn tồn tại hợp hiến trong lòng dân tộc.
Thái Bình, 19/2/2013
L.H.S.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN