Huy Đức
Cũng năm 1999, trong khi mang “Phương châm 16 chữ và tinh thần 4
tốt” về từ một láng giềng nhiều thủ đoạn, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu lại
đánh mất cơ hội ký hiệp định thương mại với một đối tác tiềm năng: Hiệp
định Thương mại Việt - Mỹ.
Tại tiểu bang Ohio (Mỹ), sau khi thông báo quyết định dỡ bỏ lệnh cấm
vận của Tổng thống Bill Clinton với Bộ trưởng Lê Văn Triết, Bộ trưởng
Ron Brown đề nghị bộ thương mại hai nước lập ra tổ công tác chuẩn bị cho
quan hệ song phương. Brown cho biết luôn là ông sẽ lập nhóm USTA do bà
Barshefsky làm nhóm trưởng. Khi trở về Việt Nam, Bộ trưởng Lê Văn Triết
đến thẳng phủ thủ tướng, chờ ông ngoài Thủ tướng còn có Bộ trưởng Đậu
Ngọc Xuân, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm.
Ông Triết kể chi tiết cuộc trò chuyện với Ron Brown. Ông Kiệt hỏi:
“Theo anh, điều này sẽ tác động đến việc mở cửa của Việt Nam như thế
nào?”. Ông Triết: “Theo tôi, nó phù hợp với chủ trương đa phương hóa,
thêm bạn bớt thù. Chắc chắn sẽ có một số anh chưa nhất trí, có anh sẽ
phân vân, nhưng mình mà lẩn quẩn thì không những mất cơ hội mà còn ảnh
hưởng đến việc mở rộng quan hệ với những đối tác khác”. Ông suy nghĩ rồi
nói: “Các anh nghiên cứu ngay xem quyết định bỏ cấm vận sẽ tác động đến
việc Việt Nam mở rộng quan hệ với các nước như thế nào. Phần ngoại
giao, anh Cầm phải có kế hoạch mở rộng quan hệ đa phương ngay sau khi Mỹ
chính thức tuyên bố. Anh Triết chuẩn bị tờ trình, trình Bộ Chính trị
xin chủ trương cho đàm phán ký kết hiệp định thương mại với Mỹ”. Ông
Triết hỏi: “Ký một hiệp định song phương như với các nước?”. Ông Kiệt
nói: “Đúng!”.
Ông Lê Văn Triết kể: Tôi về làm phương án đàm phán, chuẩn bị xong,
tôi mời đại diện Bộ Ngoại giao, Tài chánh, Ngân hàng, Bộ Kế hoạch Đầu
tư… tới họp và góp ý. Văn phòng Trung ương cũng thông báo năm ngày sau
đó Bộ Chính trị sẽ nghe trình bày. Tại cuộc họp Bộ Chính trị, tôi trình
bày xong, ông Đỗ Mười nói: “Yêu cầu các bộ có phản biện trước”. Bộ
trưởng Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân vun xới mạnh. Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu thận trọng. Thứ trưởng Bộ Tài chánh Chu Tam
Thức thì chừng mực. Nghe xong, ông Đỗ Mười phát biểu rất căng: “Chúng ta
đã đổi mới thành công, các nước đều thừa nhận, đời sống khá hơn có cần
bàn tay của Mỹ?”. Ông Đậu Ngọc Xuân nói: “Sự giúp đỡ của Mỹ là cần
thiết”. Ông Đỗ Mười: “Mình hoàn toàn độc lập, cần gì phải giúp đỡ. Việc
gì phải ký hiệp định thương mại?”.
Hôm ấy, theo chỉ đạo của anh Kiệt, Bộ Thương mại trình một lúc hai đề
án: một để đàm phán gia nhập WTO, một để ký BTA. Nhưng, theo ông Triết,
với cả hai, ông Đỗ Mười nói: “Việt Nam còn nghèo, hàng hóa sản xuất tỷ
trọng bao nhiêu, ăn thua gì, ra nó đè chết ngay lập tức. Cái thứ ba,
mình xưa giờ chủ yếu quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, chỉ am hiểu
xã hội chủ nghĩa. Giờ quan hệ với người ta, bị buộc phải theo những quy
định của người ta mình càng mất độc lập”. Bấy giờ ông Triết mới nhận ra
lý do ông Võ Văn Kiệt mời bằng được Cố vấn Phạm Văn Đồng tham gia phiên
họp này. Theo đề nghị của ông Kiệt, Cố vấn Phạm Văn Đồng phát biểu ngắn:
“Bây giờ là thời kỳ toàn cầu hóa, ai cũng phải có quan hệ với các quốc
gia. Đường lối đa phương hóa mà ta đã đi là đúng. Đã đúng thì cứ tiếp
tục. Thời đại này không ai còn tự cung, tự túc. Có gì mà không dám làm
ăn với Mỹ với WTO”.
Ông Kiệt tiếp lời: “Tôi tán thành ý kiến anh Đồng. Xu thế đó là không
thể tránh khỏi. Nói để anh Mười yên tâm, tiền thân của WTO là GATT, một
tổ chức mà Liên Xô là sáng lập viên, lúc đầu có ba mươi quốc gia. Chỉ
khi có khối SEV, Liên Xô mới rút ra. Bây giờ nước Nga cũng muốn trở lại
WTO, làm đơn xin mà họ đã chấp nhận đâu. Những nước tham gia đều theo
những nguyên tắc nhất định được hình thành bằng sự đóng góp của các
thành viên. Đã có 100 nước tham gia, có những nước yếu hơn Việt Nam,
nhiều nước còn phải sắp hàng. Anh Đồng rất đúng, Việt Nam tuy còn yếu,
hàng hóa chưa nhiều, chưa hiểu hết quy luật. Nếu mình đứng ngoài thì sẽ
như cũ. Tham gia vào thì đội ngũ mới trưởng thành. Mới hiểu thị trường,
luật pháp ra sao mà ứng phó. Phải tham gia để có tiếng nói của mình, còn
nếu đứng ngoài thì họ quyết sao mình chịu vậy. Trung Quốc đã gửi hàng
trăm người đi đàm phán lâu nay mà vẫn chưa được. Giữ gìn chế độ là nhiệm
vụ của mình, nhưng không thể giữ chế độ bằng cách không chơi với ai
cả”.
Ông Phạm Văn Đồng tiếp: “Anh Mười lo lắng mình bị lép vế cũng có lý
vì mình còn yếu. Nhưng, tôi thì tôi không sợ. Như anh Kiệt nói, phải vào
hang mới bắt cọp”. Ông Đỗ Mười không kết luận. Ông Phạm Văn Đồng đề
nghị: “Bộ Thương mại và Bộ Ngoại giao hoàn chỉnh phương án, để báo cáo
lại”.
Tháng 5-1996, ông Nguyễn Đình Lương tháp tùng ông Lê Văn Triết đi
Washington, DC., gặp Charlene Barshefsky, trưởng Đại diện Thương mại Mỹ.
Thông điệp mà Barshefsky chuyển cho ông Triết vẫn là Hoa Kỳ sẵn sàng ký
hiệp định thương mại song phương. Ông Lương nói: “Khi về nhà, tôi biết
số phận của mình. Tháng 8-1996, tôi chuẩn bị một tờ trình, phân tích bối
cảnh quốc tế, phân tích những ý đồ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam rồi đề
ra năm nguyên tắc để bộ trưởng ký trình thủ tướng. Ông Triết đưa ra lấy ý
kiến trong Bộ, một số cán bộ chủ chốt không đồng ý, lấy lý do, “không
cần bàn nguyên tắc, cần bàn cụ thể thôi”, ông Triết cũng phân vân chưa
ký. Phải một tháng sau, trước giờ ông Lê Văn Triết ra sân bay đi nước
ngoài, tôi nói: “Anh ký đi, Văn phòng Chính phủ giục”. Ông ký. Chiều tôi
mang lên Văn phòng Chính phủ. Sáng hôm sau, Văn phòng gọi: Lương ơi,
báo tin mừng cho mày, anh Sáu (Võ Văn Kiệt) chỉ ghi một chữ: ‘Đồng ý’,
viết từ bên này trang giấy kéo sang tới bên kia”.
Đàm phán Việt- Mỹ, theo ông Nguyễn Đình Lương: “Lên bờ xuống ruộng.
Năm năm cực kỳ khó khăn. Khó nhất là vì ngay từ khi bắt đầu, ông Võ Văn
Kiệt đã không còn ở vị trí quyết định. Trong các vị lãnh đạo, số người
đồng ý không nhiều, lý do: đây là vấn đề nhạy cảm, nhiều người muốn mình
không trắng, không đen, công được hưởng, tội không phải mình. Tôi là
một quan chức bé tí. Nhưng cuộc họp nào cũng phải có mặt, vì viết bài,
sửa bài cũng tôi. Bộ Chính trị họp xong bảo chuẩn bị bài ra Ban Chấp
hành. Cứ tiếc, ông Kiệt không còn làm Thủ tướng nữa”.
Lúc ấy trên Bộ Chính trị còn có ba ông cố vấn: Đỗ Mười, Lê Đức Anh,
Võ Văn Kiệt. Ông Lương nói, chúng tôi gọi tổng bí thư là “hoàng thượng”,
trên “hoàng thượng” là “vương gia”. Trước khi quyết, “hoàng thượng” còn
phải xem ý “vương gia”. “Vương gia” lại có hai phía, người ủng hộ quyết
liệt, người thì không. Theo ông Lương: “Cứ mỗi khi họp Bộ Chính trị,
chúng tôi lại phải hỏi Văn phòng: ông Kiệt có ra họp không. Có mặt ông
Kiệt thì cán cân sẽ khác. Từ đầu, quan điểm của ông Kiệt đã rất rõ ràng:
phải bình thường hóa với Mỹ, ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc, ký
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Trong cuộc họp, có khi ông mở đầu, nhưng
thường, ông nghe hết các ý kiến. Cho dù các ý kiến trong cuộc họp phát
biểu theo chiều hướng nào thì ý kiến của ông Kiệt vẫn là phải ký”.
Ngày 30-8-1999, ông Nguyễn Đình Lương sang Washington, D.C., hoàn tất
văn bản để chuẩn bị ký. Theo ông Lương: Ngày 1-9, khi tiếp ông Lương
tại phòng làm việc, Phó đại diện thương mại Hoa Kỳ Richard Fisher nói:
“Lương, tôi hỏi ông một câu thôi: phía Hoa Kỳ định ký BTA tại Hội nghị
APEC, Việt Nam có ký không?”. Ông Lương nói: “Chắc chắn ký với điều kiện
ông giải quyết cho tôi mười vấn đề”. Thực ra, theo ông Lương: “Mười vấn
đề mà tôi đề nghị ấy chỉ là tiểu tiết nhưng các nhà lãnh đạo bên Đảng
đòi giải quyết”. Fisher nói: “Ông về báo với lãnh đạo của ông, nếu Việt
Nam quyết định ký tại Auckland, có sự chứng kiến của Bill Clinton thì
những vấn đề còn lại sang đó sẽ được giải quyết hết”. Hội nghị APEC cấp
bộ trưởng dự kiến nhóm họp vào ngày 9 và 10-9-1999 và cuộc gặp cấp cao
lần thứ 11 sẽ diễn ra ngày 12 và 13-9-1999 tại Auckland, New Zealand.
Ông Nguyễn Đình Lương nói tiếp: “Tôi về báo cáo. Bộ Chính trị họp
đồng ý nhưng chưa ra thông báo. Hai ngày trước khi APEC nhóm họp, phía
Hoa Kỳ cử bà Ngoại trưởng Madeleine Korbelová Albright sang Hà Nội.
Albright sang, chỉ làm một việc duy nhất là thuyết phục ký. Bill Clinton
muốn gây tiếng vang, ông ta muốn kết thúc trang sử quan hệ Việt Nam -
Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nếu việc ký kết thành công,
tháng 11-1999, Bill sẽ sang thăm Việt Nam luôn. Người Mỹ khi ấy còn có
một mục tiêu khác: đàm phán Mỹ - Trung đang bế tắc sau chuyến đi của Chu
Dung Cơ, Bill Clinton muốn việc ký BTA với Việt Nam như một tín hiệu
gửi tới Bắc Kinh”.
Ông Võ Văn Kiệt nhận được những thông tin này ngay khi ông Nguyễn
Đình Lương chưa về tới Hà Nội. Ngày 05-9-1999, từ Thành phố Hồ Chí Minh,
ông viết thư gửi Bộ Chính trị, xin vắng mặt phiên họp ngày 7-9-1999 bàn
về Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và “xin phát biểu với Bộ Chính trị một
số ý kiến”. Ông Kiệt cho biết, những ý kiến này, ông đã trao đổi với ông
Nguyễn Mạnh Cầm tại Hà Nội trong lần gặp tuần trước đó. Ông Võ Văn Kiệt
viết: “Nên lưu ý những diễn biến trong quan hệ Mỹ - Trung và nên tính
tới tình hình chính trị nội bộ của Mỹ. Chúng ta không đặt vấn đề nhất
thiết, bằng mọi giá phải ký nhanh hiệp định này nhưng nếu có điều kiện
thì nên ký sớm để phía Mỹ có thể phê chuẩn hiệp định trước bầu cử”. Ông
Kiệt cũng đưa ra một số lập luận để cho thấy việc hai nước ký hiệp định
tại một nơi thứ ba, Auckland, New Zealand, nhân Hội nghị APEC là “bình
thường và ngày càng thông dụng”.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Ngày 7-9-1999, Bộ Chính trị họp đồng ý ký
hiệp định tại Auckland. Anh Phiêu đã rất hào hứng nói, nên thưởng gì cho
anh em đàm phán. Tôi nói khoan đã anh ạ, chờ xem thế nào, nhỡ người Mỹ
lật lọng”. Người Mỹ không lật lọng nhưng nhà ngoại giao lão luyện người
Mỹ, bà Albright, đã phạm một lỗi nhỏ góp phần làm hỏng việc lớn. Mười
giờ sáng ngày 8-9-1999, gặp Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, bà Albright
được ông Cầm xác nhận “sẽ ký”; hai giờ chiều gặp Thủ tướng Phan Văn
Khải, ông Khải vui vẻ trả lời: “Sẽ ký”.
Có lẽ, nghĩ sứ vụ đã hoàn thành, cho nên năm giờ chiều hôm ấy, khi
hội đàm với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, thay vì chỉ đề cập đến việc ký kết
BTA, bà Albright đã buột mồm hỏi: “Thế giới giờ chỉ còn bốn nước xã hội
chủ nghĩa, theo ông, có tiếp tục giữ được không?”. Sau khi khẳng định
với bà Albright, “chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi”,
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu gặp hai ông cố vấn Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Mọi
việc bắt đầu thay đổi.
Ông Đỗ Mười thừa nhận: “Buổi chiều, khoảng năm giờ, trước ngày đi họp
APEC, anh Phan Văn Khải sang gặp tôi, nói: ‘Anh Mười ạ, mai tôi đi, anh
cho ký đi’. Tôi bảo chưa được. Mai anh gặp Clinton, tôi đề nghị anh nói
ba điểm: Chúng tôi muốn ký trong nhiệm kỳ của ngài nhưng hiệp định phức
tạp quá không như hiệp định chúng tôi ký với EU, nên còn một số vấn đề
trong Đảng và Chính phủ có ý kiến khác nhau. Tôi đề nghị ngài chỉ thị
cho phái đoàn đàm phán phía Mỹ cùng chúng tôi bàn tiếp những vấn đề đó
rồi sẽ ký. Ký được trong nhiệm kỳ của ngài thì tốt, nhưng nếu chưa ký
được thì trước khi ngài nghỉ, mời ngài sang thăm Việt Nam để quan hệ
giữa ngài và Việt Nam có trước, có sau”.
Trước đó, theo ông Đỗ Mười: “Hiệp định nó dày thế này, Bộ Chính trị
ít người đọc. Tôi có thời giờ, đọc thấy nhiều vấn đề quá. Tôi gọi các vị
lãnh đạo đến, nói: ‘Cái này mới quá. Đây là hợp tác toàn diện chứ đâu
có phải chỉ là thương mại. Tôi đề nghị Bộ Chính trị bàn tiếp’”.
Theo ông Nguyễn Đình Lương: “Hôm sau, 8-9-1999, trước giờ chuyên cơ
chở Thủ tướng Phan Văn Khải, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và
Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đi Auckland, tôi nhận được điện: Ông Lương
ngồi đấy, chờ có lệnh mới đi”. Ông Lương chờ, ngày thứ nhất Bộ Chính trị
chưa họp, ngày thứ hai nghe tình hình khó khăn. Ngày thứ ba, quyết định
không ký. Ngày thứ tư, tôi về. Vừa tới nhà đã thấy chuyên viên trong vụ
ngồi đợi, bảo “lên văn phòng Ba Dũng ngay”. Ông Lương chạy lên thấy Phó
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang nhăn nhó.
Ông Lê Khả Phiêu giải thích về việc trì hoãn ký BTA một cách thận
trọng: “Tôi bảo anh Phan Văn Khải cứ đi, mời Tổng thống Bill Clinton
sang, sẽ ký. Lúc đó có chế độ cố vấn, dù sao cũng phải tôn trọng. Trong
Bộ Chính trị, tuyệt đại đa số cũng chưa đồng ý. Ta không được chuẩn bị
kỹ. Có hai chương họ tự đưa vào, năm thành bảy chương. Trước những vấn
đề quốc tế khi có những ý kiến khác nhau thì phải đảm bảo chín muồi cả
về nội dung lẫn kỹ thuật và phải tôn trọng tính tập thể”.
Trong nhiều tình huống “tập thể” chỉ là nơi pha loãng trách nhiệm cho
các cá nhân. Phiên họp Bộ Chính trị mang tính quyết định này diễn ra
khi những người am hiểu quá trình đàm phán nhất như ông Phan Văn Khải,
Trương Đình Tuyển (ủy viên Trung ương thường được mời dự), Nguyễn Mạnh
Cầm đều đang ở Auckland. Ông Đỗ Mười chỉ tay hỏi: “Các anh đã đọc chưa
mà biểu quyết? Các anh biểu quyết bán nước à?”.
Đúng như ông Đỗ Mười nói, trong Bộ Chính trị rất ít người đọc và gần
như không có ai đọc kỹ như ông. Ông Nguyễn Đức Bình buông một câu: “Toàn
cầu hóa chỉ đem lại đói nghèo”. Trong khi ông Nguyễn Phú Trọng lưu ý về
“diễn biến hòa bình”. Tuy không có được vai vế như Đào Duy Tùng nhưng
từ khóa VIII, ông Nguyễn Đức Bình trở thành “nhà lý luận hàng đầu của
Đảng”. Theo ông Nguyễn Đình Lương, trong suốt quá trình đàm phán, mỗi
khi xin ý kiến Bộ Chính trị, ông Nguyễn Đức Bình lại nói: “Chúng ta
không chống toàn cầu hóa nhưng chỉ tham gia phong trào toàn cầu hóa do
vô sản lãnh đạo chứ không nên tham gia toàn cầu hóa do giai cấp tư sản
lãnh đạo hiện nay”.
Cũng theo ông Nguyễn Đình Lương: “Chúng tôi rất khó để biết ý kiến
thật sự của ông Lê Đức Anh. Không chống BTA nhưng ông Lê Đức Anh nói:
nên ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc trước khi ký Hiệp định Thương
mại Việt - Mỹ. Trong khi đó, nhiều ủy viên Bộ Chính trị nhận được những
‘thông tin mật’ từ Tổng cục II: Trung Quốc phản ứng rất xấu nếu ký hiệp
định thương mại”519. Theo ông Phan Văn Khải, khi ông Đỗ Mười đặt lại vấn
đề về BTA, ông Lê Đức Anh đã đồng ý với ông Mười là chưa ký. Tại
Auckland, theo ông Phan Văn Khải, ông và Bill Clinton vẫn gặp nhau.
Clinton biết rõ nội tình Việt Nam nên cả hai đều không nhắc tới BTA.
Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm nói: “Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill
Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ cả phương Tây lẫn phương
Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có
hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao
nhiêu cơ hội”. Những thỏa thuận đạt được với Mỹ đã giúp Trung Quốc gia
nhập WTO vào tháng 11-2001. Thị trường 1,2 tỷ dân này đã có một sức hút
to lớn đối với các nhà đầu tư. Năm năm sau, năm 2006, Trung Quốc trở
thành quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất thế giới: 10,7% so với năm
2005.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Mất thêm một năm đàm phán, phía Mỹ cũng
chấp nhận một số đề nghị của ta nhưng đồng thời cũng bắt mình phải chấp
nhận thêm những yêu cầu của họ”. Mãi tới ngày 14-7-2000, Hiệp định
Thương mại Việt - Mỹ mới được ký ở Washington, khi nhiệm kỳ của Tổng
thống Bill Clinton chỉ còn chưa đầy 6 tháng.
Về tổng thể, theo Thủ tướng Phan Văn Khải: “So với những nội dung
định ký năm 1999, Hiệp định Thương mại (BTA) Việt - Mỹ ký năm 2000 không
đạt được thêm tiến bộ nào”. Nhưng, về mặt thời gian, thất bại năm 1999
đã đánh mất của Việt Nam hơn hai năm cơ hội. Ngày 4-10-2001, Thượng viện
Mỹ mới thông qua BTA và hai tuần sau, ngày 17-10-2001, được Tổng thống
G.W.Bush phê chuẩn. Cứ mỗi năm chậm trễ, người dân Việt Nam phải chịu
thiệt hại hơn 1,5 tỷ USD.