Thời gian gần đây những người yêu nhạc, yêu thơ và yêu nước được
thưởng thức hai bản nhạc về Việt nam. Cả hai bản nhạc đều rất tuyệt vời,
nhất là ca từ của hai bản nhạc đều đi vào lòng người ở mãi lại đó với
âm hưởng tha thiết văng vẳng bên tai như lời tự tình thuở ban đầu!
– Thứ nhất là bản nhạc “Việt nam tôi đâu” của nhạc sĩ trẻ Việt Khang,
người trong nước, người đã bị đảng CSVN kết án 4 năm tù và 3 năm quản
chế. Việt Khang thì đã ở tù, nhưng bài “Việt nam tôi đâu” của anh thì
không ai có thể cầm tù được, nó đã được hát lên khắp nơi trên thế giới ở
bất cứ nơi nào có người Việt. Nó như một thông điệp của người dân VN
gởi cho thế giới để đánh động lương tri nhân loại !
– Bản nhạc thứ hai là “Việt nam ngày mới” của nhạc sĩ Hà lan Phương–
lời của nhà báo, nhà thơ Trâm Oanh hiện đang sống tại liên bang Đức.
– Và mới đây tôi lại được hân hạnh đọc bài thơ “CHÚNG TÔI CÒN HỒN
NƯỚC” của nhà thơ Lưu Nguyễn Đạt đăng trên Diễn Đàn Việt Thức. Nhà thơ
Lưu Nguyễn Đạt là người chủ trương nhóm thân hữu Việt Thức. Ông cũng là
một Luật sư, một GS Tiến sĩ Văn Chương, rất thành đạt tại Hoa kỳ. Nhà
thơ Lưu Nguyễn Đạt được độc giả ái mộ qua nhiều thi phẩm mang vẻ đẹp tao
nhã, ý tứ trân kỳ, và nhiều khám phá đặc sắc về ngôn ngữ thi ca…. và
hơn thế nữa, ông là một người luôn khắc khoải, trăn trở về hiện tình của
quê hương đất nước!
Nếu bài hát “Việt nam tôi đâu” của Việt Khang là tiếng kêu xé lòng
của một người con nhìn mẹ Việt nam đang bị bức tử vì nguy cơ Bắc thuộc
lần thứ 3, và bài “Việt nam ngày mới” là những khúc tự tình của sự hân
hoan, của lòng kiêu hãnh và tự tin về một tương lai xán lạn, rực rỡ như
“minh châu trời đông” của nước Việt , thì bài thơ “CHÚNG TÔI CÒN HỒN
NƯỚC” của thi sĩ Lưu nguyễn Đạt lại là ưu tư, phán đoán của một “triết
gia” về “Nước Việt” và “Hồn Việt”.
Nhà thơ Lưu nguyễn Đạt đã nhìn thấy và tin tưởng vào cái “diệu kỳ”
của dân tộc chúng ta, nó vô hình vô ảnh đó là “hồn nước”, cái “diệu kỳ”
đầy tính huyền thoại này đã bảo vệ che chở và làm nên sức mạnh Phù đổng
để dân tộc Việt chúng ta vượt thắng 1000 năm nô lệ giặc Tàu và 100 năm
đô hộ giặc Tây.
Và cũng chính “hồn nước” kỳ diệu này đã tạo nên những cuộc biểu tình
chống Trung cộng xâm lược từ Hà nội đến Sài Gòn, hun đúc nên những tinh
hoa đất nước như Việt Khang, Trần vũ anh Bình, Nguyễn phương Uyên, Bùi
minh Hằng và Huỳnh thục Vy v.v.
Vào đầu thế kỷ thứ 20, Học giả Phạm Quỳnh đã nói “tiếng ta còn thì
nước ta còn”. Trong khi tất cả các nhân sĩ trí thức Việt nam đang như
“ngồi trên lửa” vì họa mất nước về tay giặc Pháp thì cụ Phạm Quỳnh lại
khẳng định như “dao chém đá” rằng “tiếng ta còn thì nước ta còn”.
Ở đây có sự gặp gỡ của hai tư tưởng lớn, cụ Phạm Quỳnh và nhà thơ Lưu Nguyễn Đạt.
Tiếng Việt chính là văn hóa Việt, là cái tinh anh của dòng giống Lạc
hồng là một phần của “hồn thiên sông núi”. Và đúng như vậy chính “hồn
thiêng sông núi” đã giữ gìn, đã giúp dân tộc chúng ta tồn tại đến hôm
nay.
CHÚNG TÔI CÒN HỒN NƯỚC
anh bán nước chúng tôi còn hồn nước
gửi gấm đây từng mảnh vụn tâm nguyên
lòng khao khát giữa điêu linh tai ngược
khiến nô dân sực nhớ lại nhân quyền
anh bán đảo biển sâu và tổ quốc
từng cột ranh từng núi tản đồi nghiêng
từng ngọn suối hoang mang nay bắc thuộc
nhưng không sao bán nổi cả linh thiêng
anh bán đứng bao nhiêu thế hệ Việt
bằng hận thù và lừa lọc u mê
bằng doạ nạt từ đỉnh cao đảng phiệt
khiến toàn dân chậm tiến mãi lết lê
anh bán nước chúng tôi còn hồn nước
mạch sống kia vẫn thao thức kết sinh
ngày khởi nghĩa triệu triệu dân ao ước
sẽ bừng lên như nắng mọc muôn hình
Lưu Nguyễn Đạt
Đất Trinh, mùng sáu Tết Quý Tỵ
Lưu Nguyễn Đạt
Đất Trinh, mùng sáu Tết Quý Tỵ
Có lẽ đây là những sáng tạo có nét đối xứng nhau về không gian, tình cảm và tầm nhìn.
Về không gian: Một người ở tại VN và hai người ở nước ngoài.
Về tình cảm: Liệu sự khác biệt về không gian này có tạo nên sự khác biệt về cảm quan của những con người này không?
Dù những tác giả này có khác biệt về không gian, khác biệt về tuổi
đời và cuộc sống, về sự cảm nghiệm cuộc sống và thế giới, nhưng họ đều
có một điểm chung, đó là lòng yêu nước nồng thắm, sắc son, cộng với niềm
tự hào dân tộc mãnh liệt.
Ở trong nước Việt Khang trực tiếp chia sẻ những tủi nhục đắng cay của
người dân VN, sự nhức nhối về một xã hội VN đang băng hoại như núi lở.
Việt Khang là chứng nhân của lịch sử dân tộc trong một thời kỳ bi thảm,
khi tổ quốc như con tàu lao xuống vực sâu của sự phá sản cả về văn hóa,
đạo đức kinh tế và an ninh. Chứng nhân của những thảm cảnh người dân
Việt mất hết nhân quyền, nhân phẩm và tư cách chủ nhân ông của đất nước
và vận mệnh của chính mình, với cuộc sống lam lũ, đói nghèo và không có
tương lai.
Trong khi đó bọn cầm quyền thì tự đắc, kiêu ngạo, sống cực kỳ giàu
sang và hoang phí, chúng bòn rút tài nguyên đất nước để chia chác hưởng
thụ, chỉ lo đấu đá tranh giành không hề quan tâm đến vận mệnh quốc gia:
Mẹ Việt nam đau từng cơn sót dạ nhìn đời.
Người lầm than đói khổ nghèo nàn.
Kẻ quyền uy giàu sang dối gian.
Và là chứng nhân của một thảm cảnh VN như vậy nên lời bài hát u uất, ê
chề và căm giận, nhạc sĩ Việt Khang đã kêu lên tiếng kêu thảm thiết như
tâm sự của một Khuất Nguyên ngàn năm trước.
Giờ đây Việt nam còn hay đã mất?
Mà bọn giặc Tàu ngang tàn trên quê hương ta.
Hoàng-Trường sa đã bao người dân vô tội.
Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu.
Còn nhà báo, nhà thơ Trâm Oanh đang sinh sống tại Đức, chị không trực
tiếp cảm nhận nổi đớn đau tủi nhục của đất nước và dân tộc, có lẽ vì
vậy mà lời thơ của chị nhẹ nhàng và lạc quan, nhân bản hơn chăng? Hay
đây là cái ân sủng mà chị được thiên phú, để trong nổi đớn đau cùng tận,
con chim sơn ca vẫn cất lên tiếng hót ngọt ngào?
Tôi không dám chắc, nhưng có một điều quan trọng hơn nhiều nếu coi
tình cảm là phản xạ của hiện thực đời sống, thì tình cảm được chắc lọc
qua tính nhân bản sẽ soi sáng lương tri con người.
Nhà thơ Trâm Oanh không trực tiếp nói lên những tủi nhục đau thương
của một đất nước một dân tộc đang sống thoi thóp dưới xiềng xích của một
đảng cầm quyền hà khắc tàn bạo và (đất nước) đang đứng trước nguy cơ
biến mất trên thế giới này!
Nhưng nhà thơ Trâm Oanh rất tinh tế khi nhắc đến thực trạng của đất
nước bằng những lời lẽ thoáng qua, nhẹ nhàng, không mô tả chi tiết nhưng
vẫn không dể xóa nhòa trong tâm thức người đọc, người nghe những tủi
nhục đau thương trên.
Nó như tiếng vạc bay qua giữa trời chiều, lẻ loi nhưng da diết thấu xương:
Một ngày mới biển sẽ xanh.
Em Bắc và Nam sẽ không còn tượng đài quỷ dữ.
Hay những nhắc nhở nhẹ nhàng:
Những trang văn và những trang thơ.
Thoát cái nhìn cú vọ.
Tay vấy máu không có quyền giảng đạo.
Những dòng vắn tắt này không một người dân VN nào không hiểu ý tác
giả muốn nói gì, ngược lại họ hiểu rất rõ rằng những câu ngắn ngủi đó
nói lên nhiều thứ lắm và cũng cay đắng lắm!
Còn nhà thơ Lưu Nguyễn Đạt với tầm nhìn của một người uyên bác, một
người như có được sự “mách bảo” của tiền nhân, một người đã hòa quyện
hồn mình vào “hồn nước” :
anh bán nước chúng tôi còn hồn nước
gửi gấm đây từng mảnh vụn tâm nguyên
lòng khao khát giữa điêu linh tai ngược
khiến nô dân sực nhớ lại nhân quyền
anh bán đảo biển sâu và tổ quốc
từng cột ranh từng núi tản đồi nghiêng
từng ngọn suối hoang mang nay bắc thuộc
nhưng không sao bán nổi cả linh thiêng
Phải nói rằng thơ Lưu Nguyễn Đạt phảng phất hồn thiên sông núi, phảng phất cái linh khí của bài thơ thần Lý thường Kiệt năm xưa.
Và nhà thơ Lưu nguyễn Đạt cũng đưa ra một lời cảnh báo nghiêm khắc là
đến một ngày nào đó “hồn thiên sông núi” sẽ mách bảo cho người dân Việt
nam biết cần phải làm gì để cứu nước và giải nguy dân tộc
anh bán nước chúng tôi còn hồn nước
mạch sống kia vẫn thao thức kết sinh
ngày khởi nghĩa triệu triệu dân ao ước
sẽ bừng lên như nắng mọc muôn hình.
Tôi nhận thấy nhạc sĩ Việt Khang, thi sĩ Trâm Oanh, thi sĩ Lưu nguyễn
Đạt đều là những người yêu nước. Việt Khang yêu nước với tâm trạng
đắng cay, ê chề và đầy phẫn nộ; Trâm Oanh yêu nước với trái tim nhân
hậu, yêu thương, lạc quan với tầm nhìn viễn kiến về tương lai đất nước;
còn nhà thơ Lưu nguyễn Đạt yêu nước với sự bình thản của một triết nhân,
với niềm tin được hun đúc từ kinh nghiệm của 4000 năm văn hiến và sự
phù trợ của hồn thiêng sông núi .
Chúng ta những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền luôn hướng về
tương lai với niềm hy vọng. Vì chúng ta tin rằng Dân chủ là xu thế tất
yếu, không thể đảo ngược được. Những diễn biến tại Việt nam hôm nay,
cùng với diễn biến của khu vực và quốc tế cho chúng ta có cơ sở khoa học
để tự tin và hy vọng.
Trong chiều hướng đó thi sĩ Trâm Oanh đã khắc họa hình ảnh một Việt
nam trong tương lai thật rạng rỡ huy hoàng, đầy tình thương yêu nhân
bản, đây không đơn thuần là một giấc mơ mà là một tất yếu lịch sử:
Một ngày mới biển sẽ xanh.
em Bắc và Nam sẽ không còn tượng đài quỷ dữ
Hà nội của chúng mình sẽ hồi sinh bất tử.
Hòn ngọc viễn đông lấp lánh hào quang…
Cảm nhận được “Việt nam tôi đâu” của Việt Khang là khúc ca bi tráng,
là một câu hỏi nhức nhối đánh thức những ai còn có lương tri và trách
nhiệm với tiền đồ dân tộc, thì “Việt nam ngày mới” của Trâm Oanh thật là
đẹp như sắc nắng mùa xuân dịu mát, thật là nhân bản và đầy niềm tin hy
vọng, còn với “CHÚNG TÔI CÒN HỒN NƯỚC” của thi sĩ Lưu nguyễn Đạt, bằng
một tài năng chín muồi và sung mãn, ông đã mang đến cho chúng ta niềm
tin thiêng liêng vào sự diệu kỳ của “hồn thiêng sông núi” và tình tự dân
tộc .
Tất cả họ như những đóa hoa, mỗi người một vẻ, trong vườn xuân dân
tộc. Cám ơn nhạc sĩ Việt Khang, nhà thơ Trâm Oanh, nhà thơ Lưu Nguyễn
Đạt, nay xin được chia sẻ bằng những dòng thô thiển này.
© Huỳnh Ngọc Tuấn
© Đàn Chim Việt