Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Vì sao cần kiến nghị sửa đổi hiến pháp?

Nguyễn Anh Tuấn (*)


(Nhân sự kiện Kiến nghị Hiến pháp của sinh viên – cựu sinh viên Luật)
Vì sao các kiến nghị về Hiến pháp lại nở rộ thời gian qua? Phải chăng những người tham gia kiến nghị ngây thơ về chính trị? Không. Hoàn toàn không. Họ thừa hiểu nhà cầm quyền sẽ phớt lờ ý kiến của họ. Nhưng họ vẫn làm, vì hơn ai hết, họ hiểu rằng, điều cần hơn cho xã hội Việt Nam lúc này và mai sau là sự lan tỏa của tinh thần hợp hiến (đặc trưng bởi sự chế ước quyền lực nhà nước bằng pháp luật, tập quán, và các giá trị xã hội), chứ không phải một bản Hiến pháp thành văn, ngay cả với những câu chữ tuyên xưng dân chủ, tự do.
Thiếu vắng các cuộc thảo luận về Hiến pháp
Những ngày gần đây, các cuộc thảo luận xoay quanh chủ đề Hiến pháp ở Việt Nam diễn ra khá sôi nổi, dưới nhiều hình thức và trong nhiều không gian khác nhau. Một cách hình thức, các cuộc thảo luận này dựa trên căn cứ pháp lý là Nghị quyết số 38/2013/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, khi xét một cách kỹ lưỡng, chúng ta nhận ra phía sau các cuộc thảo luận là những vận động của xã hội Việt Nam đang thời kỳ chuyển đổi.
Nhìn về quá khứ, Hiến pháp 1946, tuy được soạn thảo trong lúc nước sôi lửa bỏng của những ngày đầu lập quốc nhưng đã ấp ủ không ít những ý tưởng, tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại. Tuy nhiên, trong cảnh loạn ly của thời cuộc, chẳng những một cuộc phúc quyết Hiến pháp toàn dân đã không được thực hiện mà quốc dân đồng bào cũng không có cơ hội trải nghiệm những cuộc thảo luận về Hiến pháp – điều có ý nghĩa lớn lao với việc xây dựng tinh thần hợp hiến trong xã hội Việt Nam.
Sau đó, triết lý chính trị mà những nhà cầm quyền Hà Nội theo đuổi đã biến các Hiến pháp 1959 và 1980 trở thành vật trang trí. Xã hội cộng sản với nền chuyên chính vô sản theo đúng bản chất toàn trị độc đảng của nó, vận hành dưới các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy đảng; và trong bối cảnh đó, Hiến pháp đơn giản chỉ có chức năng phát ngôn cho cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền. Thực trạng này tiếp tục tước bỏ cơ hội thảo luận về Hiến pháp – đạo luật gốc giới hạn quyền lực nhà nước, bản khế ước tuyên xưng các nguyên tắc chung sống cộng đồng – của người dân Việt Nam trong vài chục năm.
Đổi mới 1986 đã thiết lập nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Việc xác lập khuôn khổ pháp lý ổn định trở thành yêu cầu tất yếu để nền kinh tế thị trường có thể tồn tại. Điều này dẫn đến đòi hỏi về một bản Hiến pháp mới – Hiến pháp 1992. Tuy vậy, cả khi soạn thảo và ban hành bản Hiến pháp 1992 lẫn khi sửa đổi vào năm 2001, dường như nhà cầm quyền vẫn ‘một mình một chiếu’. Cả hai bản văn Hiến pháp này dù bước đầu ghi nhận một số nguyên tắc của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại song vẫn chưa thoát khỏi ‘thân phận’ công cụ thể chế hóa cương lĩnh của đảng cầm quyền. Bên cạnh đó, người dân đa phần tiếp tục diễn vai ‘quan sát viên’ thờ ơ với công cuộc lập hiến được chính quyền đơn phương thực hiện, hoặc một số may mắn hơn được đóng vai ‘góp ý viên’ trong các buổi tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan đoàn thể quốc doanh khắp cả nước, để chứng tỏ sự đồng thuận với hiến pháp – cương lĩnh được thể chế hóa của đảng cộng sản.
Nỗ lực thảo luận Hiến pháp: Qua trường hợp Kiến nghị của sinh viên Luật
Sau nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, lần sửa đổi Hiến pháp 2013 lần này chứng kiến những nỗ lực của người dân đòi lại quyền lập hiến của mình, vốn lâu này bị nhà cầm quyền cố tình lờ đi hoặc biến hóa thành những quyền khác như ‘quyền quan sát’, ‘quyền ủng hộ Hiến pháp của Đảng’, ‘quyền đồng thuận với dự thảo của Quốc hội’. Từ các thư ngỏ, kiến nghị cá nhân được đăng tải trên các mạng xã hội, đến các ý kiến thảo luận, tranh biện dài ngắn khác nhau của nhiều tầng lớp nhân dân được gửi trực tiếp đến website của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong nhiều ý kiến đóng góp, đáng chú ý là Kiến nghị 72 của các nhân sỹ, trí thức và gần đây là Kiến nghị Hiến pháp của sinh viên – cựu sinh viên Luật Việt Nam.
Nếu như Kiến nghị 72 với một phương án Hiến pháp được đính kèm hàm chứa hàng loạt các ý tưởng mới mẻ (khi so sánh với các bản Hiến pháp trước đây) về nguyên tắc tổ chức, vận hành hệ thống chính trị cũng như mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong hệ thống chính trị và mối quan hệ nhà nước-công dân thì Kiến nghị của sinh viên – cựu sinh viên Luật, với hai đề nghị chính là bãi bỏ thời hạn góp ý và tiến hành thủ tục nhân dân phúc quyết Hiến pháp- lại nổi bật lên ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, chủ thể kiến nghị là các sinh viên – cựu sinh viên Luật Việt Nam. Như kiến nghị lập luận, “lịch sử lập hiến của các quốc gia trên thế giới cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của những người tốt nghiệp từ trường luật, nếu không muốn nói rằng chính họ là những người dẫn dắt và thúc đẩy sự tiến bộ của tư duy lập hiến ở khắp mọi nơi.” Quả thực là, không chỉ trên thế giới mà ngay trong lịch sử vận động của chủ nghĩa hợp hiến của Việt Nam, một trong những văn bản đầu tiên gây tiếng vang có đề cập đến nền pháp quyền là Bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Versaille 1919, đã được chấp bút bởi một số người Việt yêu nước từng là sinh viên luật như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh. Do đó, những người đã và đang là sinh viên ngành Luật ở Việt Nam hiện có nhiều lợi thế nhất về chuyên môn để nhận lãnh “trách nhiệm to lớn trong việc xây dựng nên nền tảng cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam,” kế thừa trọng trách mà các bậc tiền bối của họ đã để lại. Dưới góc độ lịch sử, đây là lần đầu tiên những người học Luật ở Việt Nam ‘chung vai sát cánh’ trong một kiến nghị có tính chất dân sự về Hiến pháp, để hiện thực hóa những nguyên tắc pháp quyền mà họ đã từng thượng tôn lúc ở giảng đường đại học vào bản Hiến pháp mới của quốc gia.
Khía cạnh nổi bật thứ hai của bản kiến nghị là dự phóng thái độ của những người chấp bút và ký tên. Kiến nghị viết, “chúng tôi cho rằng, một bản Hiến pháp ban hành mà không thông qua thủ tục phúc quyết sẽ mất đi phần lớn ý nghĩa vốn có và không được nhân dân cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận”. Dù được trình bày dưới hình thức một nhận định nhưng câu văn này của bản kiến nghị gợi ý khả năng những người soạn thảo và ký tên sẽ không công nhận bản Hiến pháp sửa đổi nếu thiếu vắng thủ tục nhân dân phúc quyết. Điều này, đến lượt nó, phủ nhận tính chính danh của hệ thống chính trị dựa trên bản Hiến pháp mới – điều mà lực lượng cầm quyền ở Việt Nam đang theo đuổi. Đây cũng là lần đầu tiên có bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp triển khai một tuyên bố thái độ như thế.
Cả hai bản kiến nghị này đã lan truyền nhanh chóng trên Internet và được đông đảo người dân bình luận, trao đổi. Đây là lần đâu tiên trong lịch sử Việt Nam tồn tại một không gian thuần túy dân sự để người dân bàn luận vấn đề hệ trọng bậc nhất của quốc gia là lập hiến.
Ý nghĩa thực sự của các kiến nghị
Trong thực tế chính trị Việt Nam hiện nay, có lẽ đến người ngây thơ nhất cũng không tin vào khả năng lực lượng cầm quyền tiếp thu nghiêm túc các ý kiến đóng góp tâm huyết, khoa học và hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong lần sửa đổi Hiến pháp này. Nguyên nhân cốt yếu là lợi ích: Việc tiếp thu các ý kiến này và chuyển hóa chúng thành nội dung của bản Hiến pháp mới đồng nghĩa với việc tự tước bỏ những đặc quyền đặc lợi lâu nay của lực lượng cầm quyền. Đơn cử, nhà cầm quyền nếu chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận thì phải chịu áp lực trách nhiệm giải trình. Hoặc, tham nhũng đất đai sẽ không dễ được nhà cầm quyền thực hiện nếu chấp nhận sơ hữu tư nhân về ruộng, đất.
Vậy câu hỏi là: Vì sao các kiến nghị về Hiến pháp lại nở rộ thời gian qua?
Phải chăng những người tham gia kiến nghị ngây thơ về chính trị? Không. Hoàn toàn không.
Họ thừa hiểu nhà cầm quyền sẽ phớt lờ ý kiến của họ. Nhưng họ vẫn làm, vì hơn ai hết, họ hiểu rằng, điều cần hơn cho xã hội Việt Nam lúc này và mai sau là sự lan tỏa của tinh thần hợp hiến (đặc trưng bởi sự chế ước quyền lực nhà nước bằng pháp luật, tập quán, và các giá trị xã hội), chứ không phải một bản Hiến pháp thành văn, ngay cả với những câu chữ tuyên xưng dân chủ, tự do. Thiếu gì trường hợp các quốc gia có Hiến pháp ‘tốt’ nhưng thực trạng xã hội tồi tệ. Cũng có quốc gia, như Vương quốc Anh, chẳng cần đến Hiến pháp thành văn vẫn sống dưới tinh thần hợp hiến, đủ khả năng điều chỉnh hành vi của nhà nước theo hướng tự do, dân chủ.
Cần phải thừa nhận rằng, tinh thần hợp hiến vẫn chưa là một thành tố chính yếu của văn hóa chính trị Việt Nam. Thực tế này được phản ánh qua (1) số lượng các văn bản cũng như hành vi vi hiến của chính quyền và (2) sự hiếm hoi của hành vi viện dẫn Hiến pháp của người dân trong đời sống pháp lý và xã hội . Điều này thật dễ hiểu nếu đặt trong bối cảnh thiếu vắng các cuộc thảo luận về Hiến pháp trong suốt chiều dài lịch sử đất nước. Người ta không thể tường minh những điều người ta ít hoặc chưa từng nghe tới.
Do đó, điều cần làm lúc này là, bất luận việc sửa đổi Hiến pháp lần này do ai khởi xướng và kết quả ra sao, vẫn tồn tại trong đó một cơ hội để quốc dân đồng bào thảo luận về Hiến pháp. Và đồng thời, cũng là cơ hội để tinh thần hợp hiến được lan tỏa trong xã hội, nhằm dựng xây một văn hóa chính trị hiện đại cho Việt Nam. Người viết cho rằng, đây mới là ý nghĩa quan trọng nhất của các bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp lần này.
___________________________
(*) Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn sinh năm 1990, là cựu sinh viên Học viện Hành chính. Đây cũng chính là “sinh viên tự thú”, người mà vào tháng 4/2011 đã gửi đơn “tự thú” việc “tàng trữ” một số bài viết của TS.Cù Huy Hà Vũ và đề nghị “được” Viện KSNDTC truy tố (Chú thích của BTV TTXVH).
- Mời xem lại bài cùng tác giả: + Đơn Tự thú của sinh viên Nguyễn Anh Tuấn (26-04-2011). + Thư ngỏ của Sinh viên Nguyễn Anh Tuấn (20-05-2011).
Trang Kiến nghị Hiến pháp của các sinh viên & cựu sinh viên Luật VN: hienphap.kiennghi.net

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"