Đàn Chim Việt
Thế giới mà chúng ta đang sống phát triển bởi tham-dục
và hủy diệt bởi tham-dục, không đứng yên một chỗ mà luôn luôn biến đổi.
Theo Dịch Lý của Đông Phương sự thay đổi đó vận hành theo nguyên lý:
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng Sinh Bát
Quái và Bát Quái sinh… Tùm Lum. Khi cái “Tùm Lum” ra đời thì thiên hạ
đại loạn. Lúc đó thế nào cũng có một quốc gia mới nổi lên, gồm thâu
thiên hạ và chu kỳ Thái Cực lại bắt đầu.
Kể từ khi Liên Bang Xô-viết xụp đổ vào năm 1991, Hoa Kỳ nghiễm nhiên
trở thành siêu cường “Độc Cô Cầu Bại” thế Lưỡng Cực tan biến và thế giới
hình thành thế Thái Cực hay Đơn Cực. Mỹ giống như thiên tử nhà Chu cách
đây khoảng 1000 năm trước Tây Lịch, bá chủ thiên hạ, chư hầu răm rắp
tuân lệnh. Thế nhưng theo lẽ tự nhiên của trời đất, con cháu nhà Chu do
bất tài, nhu nhược hoặc hoang dâm vô độ, nhà Chu dần dần suy yếu. Khi
thiên tử suy yếu – bây giờ gọi là suy thoái, chư hầu lợi dụng xưng Bá,
thôn tính các nước nhỏ, kéo theo một thời kỳ chiến tranh kéo dài hơn 200
năm, từ năm 403 trước Tây Lịch gọi là Xuân Thu Chiến Quốc và chấm dứt
vào năm 221 trước Tây Lịch khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc chấm dứt
thế loạn “Tùm Lum”. Dĩ nhiên trong 200 năm đó, thiên hạ điêu linh, dân
tình khốn khổ, “đống xương vô định đã cao bằng đầu”. Thế nhưng bao nhiêu
học thuyết về ngoại giao, chính trị, quân sự, kể cả những chiến lược mà
nước nhỏ dùng để giữ nước, các gương sáng ngời về lòng yêu nước như
Phạm Lãi của nước Việt, các thiên tài ngoại giao, quân sự, trị quốc như
Quản Trọng, Tô Tần, Trương Nghi, Nhạc Nghị và tư tưởng như “Bách Gia Chư
Tử” cũng đều sản sinh trong thời kỳ này. Các nhân vật gần như huyền
thoại đó vẫn sống mãi trong tâm tưởng mọi người và các học thuyết đó vẫn
còn là kim chỉ nam cho chính sách ngoại giao, quân sự, trị quốc cho
nhân loại ngày hôm nay.
Vào năm 1972, do nhu cầu chia rẽ Khối Cộng Sản và làm suy yếu Liên Bang Xô-viết, cặp bài trùng Nixon- Kissinger đã “chơi con bài Hoa Lục” bằng cách đá người đàn em chống cộng lừng lẫy là Tưởng Giới Thạch ra khỏi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và rước Mao Trạch Đông ngồi vào đó, kể cả việc làm ngơ cho Hoa Lục cưỡng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam để chứng tỏ “thành tâm thiện chí” với ông bạn mới.
Khác với Mao Trạch Đông còn do dự và “bế quan tỏa cảng”, Ô. Đặng Tiểu
Bình nhìn xa trông rộng, tương kế tựu kế, theo kế sách “nhập nô xuất
chủ”. Năm 1979 ông qua Mỹ để bình thường hóa ngoại giao với Hoa Kỳ và
“mở tung cánh cửa”. Thế giới, nhất là Hoa Kỳ khen ngợi Ô. Đặng Tiểu Bình
hết mình. Tiếp theo đó tư bản Mỹ, kỹ thuật Mỹ, công ty Mỹ ào ào đổ vào
để khai thác tài nguyên thiên nhiên, biến khối 1.3 tỉ người thành thị
trường công nhân rẻ mạt chế hàng cho Mỹ, vừa làm giàu cho chính quốc vừa
đem về cho dân Mỹ xài chơi cho sướng. Ước mơ của Hoa Kỳ và Tây Phương
kể như thành tựu. Liên Xô xụp đổ, Hoa Lục “gia nhập cộng đồng thế giới”
rồi đây thiên hạ thái bình, còn lo gì nữa?
Ô. Bill Clinton là người sung sướng nhất, được hưởng cái khoái cảm
“Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng”. Giống như Ngô Phù Sai năm
xưa ngất ngưởng với Tây Thi ở Cô Tô Đài, ông “tình tứ” với Cô Monica
Lewinsky ngay tại Phòng Bầu Dục – nơi ban bố những quyết định liên quan
đến vận mệnh của thế giới. Còn Ô. Bush Con tự coi mình là “võ lâm chí
tôn” không cần mạng lệnh của Liên Hiệp Quốc, với Anh Quốc, sau này thêm
NATO đem quân vào Iraq và Afghanistan và như thế lao vào hai cuộc chiến
vô cùng tốn kém về nhân mạng và của cải, kéo dài đã hơn 12 năm mà Ô.
Obama gỡ chưa ra. Nước Mỹ đâu có ngờ trong khi Hoa Kỳ tự thị (dưới thời
Ô. Clinton), sa lầy trong hai cuộc chiến (dưới thời Ô. Bush Con), Đặng
Tiểu Bình và các người kế vị là Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào đã âm thầm
luyện thành công môn “Hấp Tinh Đại Pháp”. Cái độc địa của môn võ công
này là thu hết nội lực của đối phương để biến thành nội lực của chính
mình, đến một lúc nào đó đối thủ bủn rủn cả chân tay rồi thành phế nhân.
Hàng Made in China rẻ rề được các công ty bán lẻ khổng lồ của Mỹ như
Wal Mart, Target, Best Buy, Costco v.v… đem về bán cho dân xài lại khiến
công ty Mỹ phá sản. Dân Mỹ có thói quen thấy hàng rẻ thì ùn ùn kéo đến
mua, nhiều khi dẫm đạp lên nhau mà chết – chẳng hạn như trong ngày Black
Friday, không kể tự ái dân tộc hay quyền lợi quốc gia gì cả. Trong khi
họ than thiền về nạn thất nghiệp nhưng lại không biết đâu là nguyên do
của thất nghiệp. Ông Tàu chứ còn ai nữa? Thế cho nên một số nhà bình
luận nói rằng “Kẻ thù của nước Mỹ chính là tư bản Mỹ”. Hiện nay giới tư
bản Mỹ chỉ chiếm 1% nhưng thâu tóm 90% tài sản đất nước.
Hệ thống truyền thông Mỹ, phim ảnh Mỹ, chính trị gia Mỹ lúc nào cũng
nhồi vào đầu óc người dân, “Mỹ Number One”, “Mỹ lãnh đạo thế giới”.
Chuyện hàng Made in China có tràn ngập thị trường Mỹ chỉ là “ba cái lẻ
tẻ”, nhằm nhò gì, ”think tank” của Mỹ tính hết cả rồi. Lợi dụng quan hệ
hợp tác chiến lược với Mỹ, Hoa Lục học hỏi, kể cả ăn cắp lẫn sao chép
siêu kỹ thuật để chế tạo vũ khí hiện đại xuất cảng và chống Mỹ. Tiền lời
bán vũ khí, tiền lời bán hàng do công ty Mỹ sản xuất tại Hoa Lục đem
cho Hoa Kỳ vay, rồi mua công khố phiếu rồi trở thành chủ nợ của Hoa Kỳ.
Thật trớ trêu! Sách lược vĩ đại hay “diệu kế” của Nixon-Kissinger 40 năm
sau trở thành”Con Ngựa Thành Troie”!
Vào đầu thập niên 1990 khi Hoa Lục đã xây dựng xong hệ thống quân sự
khổng lồ tại Đảo Hải Nam, trên biển cũng như dưới lòng đất, Hoa Kỳ vẫn
còn đắm chìm trong “giấc mơ vàng” hợp tác chiến lược với Tàu. Lúc đó nếu
có nhà bình luận nào nói rằng Hoa Lục sẽ là đối thủ hoặc xa hơn là kẻ
thù của Hoa Kỳ thì lập tức bị gán cho nhãn hiệu bảo thủ và thiển cận.
Chỉ tới năm 2009 khi Hoa Lục trình Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tấm bản đồ
Đường Lưỡi Bò gom hết Biển Đông vào lãnh thổ của mình thì Hoa Kỳ mới
giật mình, hối hả rút quân khỏi Iraq, Afghanistan trong kế hoạch gọi là
“Xoay Trục”, tức tái phối trí lực lượng tại nơi mà Hoa Kỳ đã bỏ lại khi
tháo chạy khỏi Việt Nam năm 1975.
Để đối phó với kế hoạch “Xoay Trục” của Mỹ, về mặt ngoại giao Hoa Lục
tung tiền “mua” Thái Lan, Kampuchea, trung lập hóa Miến Điện khiến khối
ASEAN rạn nứt. Về mặt quân sự cho tàu hải giám, tàu ngư chính tiếp tục
uy hiếp Việt Nam, Phi Luật Tân trên biển. Hành động nguy hiểm nhất của
Hoa Lục, mà cả thế giới đều thấy rõ, là biến Hoàng Sa (ngụy danh Tam Sa)
thành bộ chỉ huy quân sự kiểm soát Biển Đông, ban bố lệnh kiểm tra, lục
soát các tàu qua lại trên vùng biển này, cho in bản đồ có hình Lưỡi Bò
trên sổ xuât cảnh, công bố bản đồ trong đó toàn bộ Biển Đông khoanh vùng
bởi Đường Lưỡi Bò thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, đồng thời mở mặt trận
thứ hai tại Biển Hoa Đông, uy hiếp Nhật Bản. Phong trào bài Nhật mới đầu
tưởng chỉ là thủ đoạn hù dọa nay trở thành “vũ khí kinh tế” chống Nhật
và chiến tranh Trung-Nhật có nguy cơ bùng nổ. Nhật sợ quá vội vã lên kế
hoạch phòng thủ và cũng “xoay trục” như Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn với tờ
New York Times trước khi từ nhiệm, Bà Hilary Clinton nói rằng Trung Quốc
thật sự tạo ra một mối lo (cho Hoa Kỳ và thế giới). Một siêu cường như
Hoa Kỳ, giống như thiên tử Nhà Chu mà phải “lo ngại” sức mạnh của Hoa
Lục thì đó không phải là chuyện đùa rỡn.
Sự “xoay trục” của Nhật giống như Liên Minh Lục Quốc chống Tần năm
xưa. Các chiến lược gia Nhật Bản nhận thấy việc đối đầu với Hoa Lục là
chuyện dài “ngàn năm” cho đến khi nào Hoa Lục thay đối chính sách và dù
có thay đổi chính sách thì Hoa Lục vẫn chơi lá bài “nước lớn” tức “kẻ
cả”. Dù liên minh Mỹ-Nhật có đó nhưng nó chưa đủ sức để chống Tàu. Nếu
Hoa Lục khống chế được Đông Nam Á, chắc chắn Nhật Bản phải đầu hàng hoặc
liên minh với Mỹ để mở cuộc chiến tranh tổng lực để tìm sinh lộ. Kế
sách tối hảo vừa lợi vừa ít gây tổn hại cho Nhật là liên kết với Đông
Nam Á và làm cho các nước này mạnh lên. Khi họ mạnh lên về quân sự và
kinh tế, với tinh thần độc lập tự chủ, chính Đông Nam Á sẽ là “ràng rào
tự nhiên” ngăn chặn Hoa Lục. Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu, Úc Châu, Ấn Độ
và cả thế giới thấy rõ điều này.
Về chiến lược ngăn chặn Trung Quốc – nói Đông Nam Á là nói về “diện”
còn “trọng điểm” chính là Việt Nam chứ không phải Phi Luật Tân. Chỉ cần
mất phần còn lại của Trường Sa, dù Phi Luật Tân còn đó, Đông Nam Á coi
như thuộc về Hoa Lục. Lúc đó Hoa Kỳ phải lui về cố thủ ở Guam và như thế
chiến tranh đã sát nách lãnh thổ Hoa Kỳ, đó là cơn ác mộng của Ngũ Giác
Đài. Chính vì thế mà chỉ hơn tháng vừa qua, người ta đã chứng kiến
những chuyển động ngoại giao dồn dập đổ về Đông Nam Á:
- Ngày 10/1/2013 Bộ Trưởng Quốc Phòng Ý Đại Lợi thăm và hội đàm với
Tướng Phùng Quang Thanh. Hai bên cam kết hợp tác trong lãnh vực đóng
tàu, đào tạo và tiếp đón sĩ quan Việt Nam tu nghiệp tại Ý.
- Ngày 6/1/2013 Tân Bộ Trưởng Nhật Ô. Fumio Kishida họp với Ngoại
Trưởng Phi Luật Tân trong chuyến công du đầu tiên bàn về hợp tác an ninh
hàng hải trên Biển Đông và cung cấp cho Phi 10 tàu tuần duyên.
- Ngày 15/1/2013 Phó Tổng Thống Ấn Độ Hamid Ansari thăm Việt Nam đồng
thời kết thúc Lễ Kỷ Niệm Năm Hữu Nghị Ấn-Việt. Cuộc viếng thăm cho thấy
Ấn Độ muốn thắt chặt thêm quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
- Ngày 16/1/2013 Chủ Tịch Quốc Hội Nam Hàn thăm Việt Nam. Theo thống
kê trong nước, cho tới ngày hôm nay, Nam Hàn là nhà tài trợ cho Việt Nam
chỉ đứng thứ hai sau Nhật Bản.
- Ngày 16/1/2013 Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe chọn Việt Nam để thực
hiện chuyến công du đầu tiên khi ông vừa nhậm chức chưa đầy một tháng,
tình hình trong nước vẫn còn bề bộn, Senkaku vẫn sôi động. Chuyến viếng
thăm Việt Nam của Ô. Abe tập trung vào viện trợ và an ninh Biển Đông.
Còn chuyến viếng thăm Thái Lan và Nam Dương sau đó chỉ tập trung vào
thương mại, đầu tư. Tưởng nên nhắc lại đây, vào ngày 29/12/2012 ngay khi
được tin Ô. Abe được chọn làm thủ tướng, Ô. Nguyễn Tấn Dũng- Thủ Tướng
Việt Nam đã gọi điện thoại chúc mừng và đàm đạo, điều này cho thấy Việt
Nam đánh giá cao quan hệ hợp tác chiến lược với Nhật và nhất là lập
trường cương quyết không tương nhượng Hoa Lục trong cuộc đối đầu tại
Senkaku của Ô. Abe. Nhận định về chuyến viếng của Ô. Abe, Báo điện tử
Người Lao Động viết như sau, “Việc Thủ tướng Shinzo Abe chọn Việt Nam
làm điểm đến đầu tiên trong chuyến công du đã thu hút nhiều sự quan tâm
của dư luận quốc tế. Đài BBC dẫn lời giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, cho rằng trong tất cả các quốc
gia Đông Nam Á, Việt Nam có lẽ là nước có quan hệ an ninh thân
cận nhất với Nhật Bản. Trong tám đối tác chiến lược đã được
thiết lập của Việt Nam thì Nhật Bản đứng thứ hai chỉ sau Nga.
Ngoài ra, Nhật Bản là nước tài trợ ODA (Official Development
Assistance) lớn nhất của Việt Nam, nhà đầu tư Số 1 tại Việt Nam và
là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam”.
- Cũng trong thời gian này, BBC tiếng Việt đưa tin, “Trong lúc tân
thủ tướng Nhật Bản, ông Shinzo Abe chuẩn bị cho chuyến thăm Đông
Nam Á, bắt đầu bằng Việt Nam tuần này, Hoa Kỳ cũng gửi một
phái đoàn quân sự và an ninh cao cấp sang Đông Bắc Á trong mối
lo ngại về tình hình khu vực. Cùng lúc, khối ASEAN tiếp tục
đề cao quy tắc ứng xử cho khu vực Biển Đông và tiếp tục đối
thoại với Trung Quốc. Chuyến thăm của các quan chức Mỹ, gồm
Thứ trưởng Ngoại giao Kurt Campbell và Thứ trưởng Quốc phòng
Mark Lippert cùng giám đốc châu Á trong Hội đồng An ninh Quốc gia
Daniel Russell sang Tokyo và Seoul là để bàn với tân nữ tổng
thống Hàn Quốc và tân thủ tướng Nhật Bản về an ninh vùng.”
- Ngày 17/1/2013 Ô. Nguyễn Phú Trọng-Tổng Bí Thư Đảng CSVN lên đường
thăm Vương Quốc Bỉ, Liên Hiệp Âu Châu, hội kiến với Thủ Tướng Ý Đại Lợi
và sau đó thăm Anh Quốc hội kiến với Thủ Tướng Cameron. Theo báo chí
trong nước, tại Bỉ, hai bên đã nhất trí tăng cường hợp tác trao đổi
thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực Bỉ có thế mạnh như phát triển
hải cảng, tiếp vận, giao thông vận tải, công nghệ xanh, công nghệ cao,
kỹ nghệ hàng không- không gian, công nghiệp nặng và y tế. Ô. Nguyễn Phú
Trọng cũng đã chứng kiến lễ ký một số văn kiện hợp tác Việt-Bỉ, như hỗ
trợ ứng phó biến đổi khí hậu, mở rộng khu công nghiệp và Hải Cảng Vũ
Đình (Hải Phòng), hợp tác giữa Việt Nam với vùng Flanders. Tại Ý Ô.
Nguyễn Phú Trọng đã hội kiến với Thủ Tướng Monti. Hai bên đã ra Tuyên Bố
Chung thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, Bản Ghi Nhớ giữa hai Bộ
Quốc Phòng; Bản Ghi Nhớ về hợp tác và tương trợ hành chính trong lĩnh
vực quan thuế; Bản Ghi Nhớ về hợp tác giữa Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam và
Tập Đoàn Dầu Khí Italia; Trao giấy chứng nhận đầu tư thăm dò, khai thác
dầu khí cho Tập Đoàn Dầu Khí Italia các Lô 114, lô 120 và lô 105-110/04
ngoài khơi Quảng Bình, Hà Tĩnh và Quảng Nam. Tại Anh Quốc, Thủ Tướng
Cameron và Ô. Nguyễn Phú Trọng đã thảo luận và nhất trí về các biện pháp
nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai nước, nhất là trên các
lĩnh vực thương mại, hàng hải, tài chính ngân hàng, giáo dục… phấn đấu
đưa kim ngạch thương mại hai nước lên 4 tỷ USD trong năm nay. Anh Quốc
cũng mong muốn Việt Nam đóng vai trò mạnh mẽ và xây dựng hơn trong khu
vực cũng như trên thế giới và Anh Quốc sẽ hỗ trợ Việt Nam hoàn thành
trách nhiệm này giống như lời tuyên bố của Ô. Panetta – Bộ Trưởng Quốc
Phòng Hoa Kỳ trước đây. Do đó người ta dự đoán có thể quân đội Việt Nam
sẽ tham gia lực lượng LHQ gìn giữ hòa bình trong tương lai. Dù đề tài
nhân quyền được nêu ra tại Nghị Viện Anh, việc Âu Châu nồng nhiệt tiếp
đón Ô. Nguyễn Phú Trọng – đã đi cùng nhịp với lời kêu gọi “Âu Châu cũng
phải tăng cường hợp tác với Mỹ để bảo đảm ổn định tại khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương và đây cũng là lợi ích của Châu Âu” (RFI) của Phó Tổng
Thống Joe Biden trong Hội Nghị An Ninh Munich ngày 2/2/2013.
- Ngày 18/1/2013 Bà Cristina – nữ Tổng Thống Argentina thăm Việt Nam.
Cuộc thăm viếng chỉ giới hạn trong khuôn khổ thương mại, đầu tư và liên
kết ngoại giao.
- Ngày 23/1/2013 tại Nam Vang, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội
Trung Quốc, Tướng Thích Kiến Quốc, ký một thỏa thuận giúp huấn luyện lực
lượng vũ trang Kampuchea với Bộ Trưởng Quốc Phòng Tea Banh, đồng thời
bàn giao 12 chiếc trực thăng đa năng Zhi-9 do Trung Quốc sản xuất trong
đó có 4 trực thăng chiến đấu. Kampuchea đã dùng khoản viện trợ 195 triệu
đô-la từ Trung Quốc để mua số trực thăng vũ trang này. Cũng có tin
Trung Quốc cho không để lôi kéo Kampuchea vào quỹ đạo của mình. Cộng
thêm với việc mua sắm 100 xe tăng, 40 xe bọc thép mới đây, những chuyển
động về mặt quân sự của Kamphuchea đã khiến Thái Lan lo ngại. Xong Việt
Nam cũng phải dè chừng Trung Quốc lại chơi “lá bài Khờ Me Đỏ” để thọc
vào biên giới phía nam Việt Nam.
- Ngày 4/2/2013 nhân dịp tham dự lễ hỏa thiêu Cựu Hoàng Norodom
Sihanouk tại Nam Vang, Ô. Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc hội đàm với Thủ
Tướng Pháp Jean Marc Ayrault. Ô. Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam
luôn coi trọng phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp với
Pháp, một đối tác ưu tiên của Việt Nam tại châu Âu.
- Trong khi những chuyển động ngoại giao tập trung vào Việt Nam và
Phi Luật Tân như thế thì vào ngày 4/2/2013 BBC đưa tin, “Tân Hoa Xã cho
hay ba khu trục hạm đã rời Cảng Thanh Đảo ở phía đông tỉnh Sơn
Đông hôm thứ Ba 29/1 để tham gia các hoạt động tập trận ở Nam
Hải (Biển Đông) và Tây Thái Bình Dương. Hãng tin nhà nước Trung
Quốc cho biết thêm rằng các hoạt động trên sẽ diễn ra ở Hoàng
Hải, Biển Hoa Đông, Biển Đông, Eo Biển Miyako, Kênh Bashi và vùng
biển phía đông Đài Loan.” điều đó cho thấy lò lửa Đông Nam Á đang âm ỉ
lại mỗi lúc được đổ thêm dầu. Cả thế giới đang căng thẳng chờ đợi một
biến cố có tầm vóc “thể kỷ” chưa biết nổ ra lúc nào. Quốc Hội Mỹ chưa
bao giờ phải họp để bàn tới “Vấn Đề Trung Quốc” nay trong cuộc điều trần
để chuẩn nhận tân ngoại trưởng, Ô. John Kerry đã phải xác định sách
ngoại giao của Hoa Kỳ trong những ngày tháng tới như sau “Tiếp tục tái
cân bằng và củng cố quan hệ với Trung Quốc cũng như tiếp tục thực hiện
chính sách “xoay trục” sang Châu Á Thái Bình Dương.”
Trong bối cảnh “Xuân Thu Chiến Quốc” ngày hôm nay – Việt Nam, do rất
nhiều yếu tố như: địa lý chính trị, lịch sử và trật tự thế giới mới, đã
chủ trương hợp tác cũng như hợp tác chiến lược với tất cả các quốc gia
trên thế giới nhưng “không liên minh với ai để chống ai” khác hẳn với
Phi Luật Tân. Phi Luật Tân, do truyền thống và lịch sử đã vạch một chiến
tuyến rõ ràng, nương tựa vào sức mạnh Hoa Kỳ là chính và không cần hợp
tác chiến lược với Nga, Ấn Độ, Úc, Âu Châu. Trong khi Phi Luật Tân có
“trụ Mỹ” để bám, còn Việt Nam thì “không bám” vào trụ nào. Chính vì thế
mà một số người cho rằng Việt Nam đã “Lăng Ba Vi Bộ” tức chính sách
ngoại giao và quốc phòng chênh vênh, không rõ ràng. Thế nhưng theo
Wikipedia tiếng Việt, “Lăng Ba Vi Bộ là cách di chuyển bộ cước tạo ra
một ảnh ảo khiến đối phương chỉ tấn công vào ảnh ảo, nên đương sự luôn
dễ dàng thoát hiểm.” Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm nhờ học được bí
kíp này mà sống sót. “Lăng Ba Vi Bộ” trong sách lược ngoại giao chính là
thế ngoại giao “động”. Vì chuyển động giống như “đu dây” nên “ảo”, vì
ảo nên “thấy vậy mà không phải vậy”. Nói rõ hơn ““Lăng Ba Vi Bộ” là liên
kết với nhiều nước khiến kẻ thù phân tâm vì phải đối phó với nhiều mặt
trận – giống như đứng giữa nhìn chiếc đèn cù chạy chung quanh mình. Thực
tế, nhìn vào chính trường quốc tế bây giờ, các nước lớn cũng thi triển
bí kíp “Lăng Ba Vi Bộ”. Hoa Kỳ buổi sáng bay qua Bắc Kinh họp “hợp tác
chiến lược” với Hoa Lục, buổi tối quay về Ngũ Giác Đài bàn kế hoạch
“xoay trục” hợp tác chiến lược với Úc Châu, Nhật Bản, Ấn Độ, nay thêm Âu
Châu để “đốn ngã” ông bạn “hợp tác chiến lược” của mình. Nhật Bản vẫn
coi mối quan hệ với Trung Quốc là trọng yếu nhưng liên kết với Hoa Kỳ,
Anh Quốc, Ấn Độ và ngày nay với Việt Nam, Phi Luật Tân để đối phó với
Trung Quốc. Ấn Độ cũng hợp tác chiến lược với Hoa Lục nhưng hối hả liên
minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam để ngăn ông “Con Trời”. Còn Âu
Châu, tuy nương tựa vào Hoa Lục để tồn tại kinh tế, cũng bắt đầu nhòm
ngó xuống Đông Nam Á để tiếp tay với Hoa Kỳ trong kế hoạch “xoay trục”.
Còn Thái Lan thì “sớm nắng chiều mưa”, “Lăng Ba Vi Bộ” còn hơn Việt Nam
nữa, vừa đưa Ô. Obama cửa trước đã rước Ô. Ôn Gia Bảo cửa sau. Tất cả
đều tung hỏa mù, để tạo ra một “không gian ảo” nói khác đi một “mê hồn
trận” để tự vệ, để sinh tồn, để bao vây hoặc đánh lừa đối thủ.
Khi một nước lớn nuôi tham vọng bất chính, chẳng hạn như nước Tần năm
xưa thì thiên hạ đại loạn. Ngày nay các cường quốc đang tìm cách ngăn
chặn một thứ “Tần Thủy Hoàng mới” bằng chiến lược ngoại giao giống như
Thời Xuân Thu Chiến Quốc. Chuyện Hoa Lục “trỗi dậy” không một ai cản
được mà chỉ là làm sao ngăn chặn những hậu quả thảm khốc của nó – trước
mắt cho Đông Nam Á rồi cho cả thế giới. Những biến chuyển ngoại giao và
quân sự dồn dập trong thời gian qua chỉ phản ảnh cái thế loạn “Tùm Lum”.
Phải chăng đây là chu kỳ biến dịch của Trời Đất? “Mười phần chết bảy
còn ba. Chết hai còn một mới ra thái bình”?
Trong cơn lốc kinh hoàng này, trong cái thế “ngàn cân treo sợi tóc”
này, các nước nhỏ muốn tồn tại cần có những nhân tài kiệt xuất như Quản
Trọng, Phạm Lãi, Nhạc Nghị, Tô Tần, Trương Nghi… phải lấy sức mình là
chính cùng sách lược ngoại giao linh động. Nghi ngờ quá thì không làm
được chuyện gì, mà cả tin quá thì chết. Phải “biết” như Lão Tử nói,
“biết thì sống”.
© Đào Văn Bình