Lê Quang Vinh
Cuộc hành hình cụ Nghè Cơ và bài thơ
"Đồng chí của tôi"
Lê Quang Vinh
Tôi đọc bài thơ “Đồng chí của tôi” của
Cố Thi sĩ Văn Cao và lời giới thiệu về con đường đến với công chúng của
bài thơ đó của Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo; từ trong tâm khảm tôi, một
niềm xúc động dâng trào và lòng thương cảm sâu xa đối với biết bao con
người đã bị CCRĐ đày đọa đến những cái chết thê thảm. Tôi cứ đọc đi đọc
lại bài thơ, trong đầu cũng cứ nổi lên bao lần câu hỏi: Chẳng lẽ
Thi sĩ Văn Cao chứng kiến hoặc nghe ai đó kể tường tận cho ông biết về
cuộc hành hình của Đội CCRĐ xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng
Bình đối với Thân sĩ yêu nước, đảng viên Đảng Lao động VN, Lão thành CM
tiền khởi nghĩa Cụ Nghè Cơ – Nguyễn Bá Ky? Nếu không thế, để giờ
đây con cháu hậu duệ Cụ Nghè Cơ và cả chúng ta, làm sao có được bức
tranh vô cùng bi thương bằng thơ chi tiết, điển hình và chính xác đến
từng hơi thở của nạn nhân mà Văn Cao xây dựng nên (vẻ lại) tài tình đến
thế? Đích thị nhân vật trong bài thơ “Đồng chí của tôi” chính là Cụ Nghè Cơ làng Vĩnh Lộc (xã Quảng Hòa) – Quê hương tôi rồi!
“Cụ Nghè Cơ – Tên thật Nguyễn Bá Ky
(1896 – 1956), Bí danh hoạt động CM là “Vĩnh Khang” – Nhạc phụ của
nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên –
bị “Cải cách ruộng đất” quy “địa chủ”, “phản động”, “cường hào gian ác”
và xử bắn ngay nơi chỗ mệ Nội tôi nằm là bãi Hói Nại. Cách đây 2 năm,
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình đã có Quyết định công nhận “Cán bộ Lão thành
cách mạng tiền khởi nghĩa” cho ông Nghè (Liệt sĩ, Đảng viên Đảng Lao
động – nay là ĐCS). Trường hợp minh oan này là vô cùng hy hữu và đặc
biệt; cả nước vẫn còn đấy biết bao gia đình bị quy kết oan sai, song sự
công bằng chưa thể đến với họ”. (Đám tang mệ Nội tôi – Nghịch lý thời Cải cách ruộng đất” – LQV).
Ông Nghè vốn là người thân trong gia
đình tôi. Lớn hơn sắp tuổi cha tôi – Cụ lê Duy Tiếu (sinh 1902), lại là
họ hàng ruột thịt của thông gia nhà tôi bên Cụ Kiểm Điến (gọi theo tục danh con cả Đinh Xuân Náo). Ông Nghè là em ruột mệ Kiểm – Cụ Nguyễn
Thị Huồn, nơi chị cả tôi Lê Thị Toán lấy chồng là anh Đinh Duyệt, nên
các cụ qua lại chơi thân với nhau. Mấy năm sau khi cha tôi mất, Ông vẫn
giữ tình thân như cũ.
Tôi nhớ Ông Nghè là Hội trưởng “Hội Bảo
trợ học đường” trong xã (không biết có giống như “Hội Cha mẹ học sinh”
bây giờ không?); mẹ tôi là “chấp hành”, là “thủ quỹ” của hội đó. Thi
thoảng Ông Nghè lên nhà tôi theo công việc của Hội Bảo trợ học đường;
những cữ ấy, Mẹ tôi hay làm ram (nem), hoặc chả cuốn thịt chỉ bé bằng 2
đốt ngón tay xiên vào que tre nướng khói bay mùi thơm lừng, để mời Ông
nhắm rượu. Mẹ sai tôi quạt than hồng nướng chả, bưng thau (chậu đồng)
múc nước cho Ông rửa tay; xong đâu đấy thì đứng sau cột nhà gần nơi Ông
ngồi để sai mọi thứ khác như đưa tăm, khăn lau tay, ống nhổ, rót nước
mời. Tuy còn nhỏ, nhưng tôi cũng ngầm hiểu ý Mẹ muốn dạy phép tắc cho
tôi. Ông Nghè để râu dài dài nhưng hơi thưa và đã bạc. Ông ăn nói nhỏ
nhẹ, kiệm lời. Trong tôi,Ông Nghè rất hiền, cao khiết và nho nhã vô cùng.
Mẹ tôi cùng ngồi hầu chuyện Ông Nghè trên phản gọ giữa nhà, chỉ ăn trầu
liên tục. Nghe nói, hai Cụ có giao ước gả cho nhau đứa con.
Bi kịch xẩy ra hôm đó, đúng 27/Tết Bính
Thân (27/12/Ất Mùi – 8/2/1956). Trời lạnh, gió thổi mạnh nhưng tạnh ráo.
Mới 8 tuổi, đang đói vàng mắt vẫn đầy sự hiếu kỳ của trẻ con nên tôi mò
ra phía sác bần (vùng đất nhiễm mặn bỏ hoang, không canh tác được bên
bãi Hói Nại của làng Hòa Ninh) để xem xử bắn Ông Nghè và mấy người nữa.
Dầu tôi là con địa chủ, nhưng không ai để ý đến cả. Tôi ra đây từ sáng
sớm, lần đến chỗ Ông Nghè đang bị trói “cánh khuỷu” là đám mả xung quanh
mọc đầy những cơn (cây) dứa dại đầy gây (gai). Ông Nghè vốn đã là người
nhẳng (gầy), nhưng hôm nay nhẳng lắm, thân hình lọt thỏm trong bộ áo
quần màu nâu nhuộm thẫm rách tả tơi nhiều ngày không được tắm rửa giặt
giũ. Nét mặt ông hốc hác tiều tụy, toàn những hốc xương. Ông ngồi đó, cứ
run lên do gió quá mạnh giữa đồng không mông quạnh. Tuy hai tay bị trói
thế, nhưng người ta vẫn khoác chéo theo vai Ông cuộn chiếu bó tròn chả
biết để làm gì.
Không hiểu sao, tôi lấy “bình sinh” đâu
ra mà lại chả sợ mình là “con địa chủ” để lách qua mấy ông “dân quân”
tay lăm lăm súng ống đến gần nơi Ông Nghè đang bị giam giữ. Tôi nhìn rõ
Ông mồn một trong khoảng cách mấy bước chân, thế mà đờ đẫn ngu dại không
cất lên lấy một lời chào Ông Nghè như mọi khi. Không biết Ông có còn để
ý rồi coi tôi là quá hỗn không? Trong hoàn cảnh này, tôi không tin là
Ông có nhớ ra tôi – Thằng bé con Ả Chắt Tíu!
Người ta dẫn giải Ông Nghè ra chỗ để xử
bắn. Trước đó mấy ngày, đã đấu tố kịch liệt đủ thứ tội ác do Ông Nghè
gây ra từ sự tưởng tượng diệu kỳ của đội Cải cách ruộng đất (chép ra
giấy cho những người đấu tố học thuộc lòng để đấu theo bài bản hẳn hoi).
Nơi để xử bắn ông, đã đào sẵn 3 hố huyệt và trồng 3 cọc tre để buộc 3
“phạm nhân” khi bắn. Ông Nghè cùng 2 “phạm nhân” nữa bị bắn bỏ hôm nay
là Ông Đoàn Yên tuổi còn trẻ lắm, con trai Cụ Đoàn Nghé – Trùm Đạo Công
giáo (một chức danh thuộc họ Đạo) có tiếng trong vùng, là em ruột ông
Đoàn Dưỡng – Nguyên Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến xã Ninh Trạch
(gồm 3 xã sau này là Quảng Hòa, Quảng Lộc, Quảng Văn). Ông Đoàn Dưỡng
khi còn trong kháng chiến chống Pháp, đã bị vu oan phản động, Việt Minh
bắt giam và sau đó thủ tiêu mất tích. Một án oan tày liếp dội xuống đầu
ông Đoàn Dưỡng và bao thế hệ con cháu cho đến tận ngày hôm nay. Còn Ông
nữa đã cao tuổi người Vĩnh Phước, xã Quảng Lộc; hình như tên là Hồ Tiêu
hoặc Lê Huyến (một trong hai người này, cả hai đều bị bắn trước và sau
có một ngày, nay tôi không còn nhớ rõ nữa).
Cụ Nghè được cởi dây trói là liền bị
buộc ngay vào cọc tre. Không bịt mắt, Cụ bị hành hình đầu tiên bằng súng
trường của dân quân. Lúc này, tôi sợ nên không theo gần, chỉ đứng xa xa
nên không nghe được lời tuyên án nhưng mấy phát súng nổ “đoàng đoàng”
thì xé rách cả trời đông của ngày Tết cổ truyền đang sang.
Ngày 29/8/2014 (5/8/Giáp Ngọ) vừa xong,
cùng dự đám giỗ ông Đoàn Khiển – Người bà con cùng quê quá cố cách đây
chẵn 2 năm; khi mấy anh em nhắc đến những chuyện trong thời kỳ CCRĐ, ông
Nguyễn Thế Tế – Bạn thân của ông Đoàn Khiển, người anh thân thiết đáng
kính của lớp đàn em như tôi, kể lại tường tận những giây phút cuối cùng
của Ông Nghè trong cuộc hành hình oan nghiệt ấy mà nay tôi thấy sao nó y
trang như mô tả trong bài thơ “Đồng chí của tôi” của Cố Thi sĩ Văn Cao tôi vừa đọc (do Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo giới thiệu).
Trước khi đọc những gì tôi sắp viết ra,
xin được có đôi lời về Cụ Thân phụ ông Nguyễn Thế Tế, vì giữa Cụ và Ông
Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky có mối quan hệ “đồng chí” từ trước những năm 30 của
thế kỷ trước. Cha ông Nguyễn Thế Tế tên là Nguyễn Thư, sinh sau Ông
Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky 4 tuổi (1900). Hai cụ đều theo học chữ Hán nhưng sự
nghiệp lại rẽ đôi đường. Cụ Nghè theo con đường học vấn quan lộ, thi
thố đỗ tới “Ông Nghè” (học trường “Quốc tử giám” ở Huế, đậu “Tôt nghiệp”
loại “khiêu” (giỏi), được Triều đình nhà Nguyễn giữ lại dạy chữ Hán
trong Hoàng tộc). Còn Cụ Nguyễn Thư dùi mài kinh sử lại theo nghiệp gia
truyền làm nghề thuốc Bắc, về sau trở thành một thầy thuốc giỏi, nổi
tiếng khắp vùng quê tôi. Trước năm 1930, một người tên là Nguyễn Tế (tức
Huyên) ở thôn Lũ Phong, Xã Quảng Phong cùng huyện nhà – Sau này là
người đứng ra thành lập Chi bộ Đảng CS đầu tiên tại huyện Quảng Trạch,
tỉnh Quảng Bình trước năm 1945; sang vùng Nam Quảng Trạch vận động Cụ
Nguyễn Bá Ky và Cụ Nguyễn Thư tham gia hoạt động trong phong trào yêu
nước chống Pháp. Sau mấy năm, các hoạt động của hai người bại lộ, nên từ
năm 1932 đến năm 1935, Cụ Nguyễn Bá Ky và Cụ Nguyễn Thư bị thực dân
Pháp bắt và bỏ tù giam tại nhà lao Đồng Hới. Riêng Cụ Nguyễn Bá Ky về
sau (năm 1943) tiếp tục tham gia “Việt Minh” do chính con rể là ông Đồng
Sĩ Nguyên và ông Nguyễn Trản (em ruột ông Nguyễn Tế) giới thiệu. Cụ là
người tự phá câu đối thờ trong nhà mình để lấy vải may cờ đỏ sao vàng tổ
chưc cướp chính quyền ở phủ Quảng Trạch (Ba Đồn). Một việc “đại tối kỵ”
như vậy nhưng vẫn phải hy sinh vì Cách mạng. Thắng lợi, Cụ Nghè được
phân công làm Chủ nhiệm Việt Minh xã Vĩnh Trạch (tức xã Quảng Lộc bây
giờ). Đến năm 1948, Cụ Nguyễn Bá ky là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Quay lại câu chuyện của ông Nguyễn Thế
Tế trong đám giỗ. Ông Tế nói rằng, vì giữa cha mình với Cụ Nghè Cơ có
mối quan hệ khá đặc biệt như vậy, nên ông đã cố len được lên hàng người
đầu tiên để xem cho thật rõ những gì sắp diễn ra đối với người bạn thâm
hậu của cha mình. Ông Nguyễn Thế Tế sinh năm 1939, thời CCRĐ mới chỉ là
một “thiếu niên” (16 tuổi), nên chen chúc vẫn là thuân lợi. Với trí lực
và trái tim của tuổi 16 đầy nhạy cảm, hình như điều này còn nguyên vẹn
trong đáy sâu tâm khảm dầu nay ông đã trên 70 tuổi; nên ông Nguyễn Thế
Tế nhớ rành rọt để kể lại những chi tiết thật hãi hùng với cảm xúc lớp
lang như trong phim của các đạo diễn có tài mới dàn dựng nổi. Ông Tế kể,
người trực tiếp ôm khẩu súng trường sắp sửa bắn Cụ Nghè tên là Nguyễn Khuyển (cái
tên này nghĩa đen là “Nguyễn Chó”, sau này làm trưởng Công an xã Quảng
Hòa thì đổi tên thành Nguyễn Khuyến – Cùng tên Nhà thơ lớn VN), nhà ở
cùng thôn và hình như còn có chút họ hàng với Cụ Nghè (đều họ “Nguyễn”).
Trước mặt ông Khuyển, Cụ Nghè bị buộc chặt vào chiếc cọc tre da còn
nguyên xanh thẳng đuột, mặt rũ rượi dán xuỗng đất, dường như cụ không
còn biết việc gì đang diễn ra xung quanh mình nữa. Tên Khuyển này cũng
ngắm nghía kỹ càng trước khi bóp cò súng, nhưng viên đạn đầu tiên
“đoàng” một cái lại chạy sượt vào phía ngoài bả vai bên trái Cụ Nghè.
Máu chảy. Bừng tỉnh. Cụ cố dồn hết sức trong người để hất được mặt lên
nhìn thẳng về phía tên bắm mình rồi bất thình lình hô lớn 3 lần rành
rọt, không lẫn bất cứ lời nào: “Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
Tên Khuyển không chịu thua, hắn cũng dồn sức bóp cò và những phát đạn
tiếp sau đều trúng hồng tâm Cụ Nghè. Mỗi phát đạn, tên ác ôn này nghiến
răng há mồm hô lớn đáp trả theo thế “thượng phong” trước thân hình nhàu
nát của Nhà Cách mạng – Cha chú của nhiều đảng viên Đảng CS trong họ
tộc, trong xã, trong huyện, trong tỉnh và cả trên Trung ương nữa: “Muôn
năm này! Muôn năm này! Muôn năm này! Muôn năm này!…”. Ông Tế nói nó hô
khoảng 5 – 6 lần!
Chép đến đây, nước mắt lưng tròng.
Tôi không thể nào gõ được máy tính nữa. Khổ thân Ông Nghè quá Ông ạ! (17
giờ 17’ ngày 12/9/2014 – Ngày đang có cuộc Triển lãm đầy trớ trêu của Bảo
tàng lịch sử quốc gia VN đối với nước mắt Cụ Hồ và hàng trăm nghìn linh
hồn oan khiên của CCRĐ: “Cải cách ruộng đất 1946-1956″).
Hạ sát xong mạng sống của Nhà Cách mạng
tiền bối ĐCS và Nhà nước VNDCCH trên miền Bắc vừa hòa bình, một đứa
trong đội CCRĐ cầm rạ (con dao rựa) đến phía sau xác Cụ Nghè – Lúc này
thân xác Cụ đã khuỵu xuống. Hắn dơ cây rạ định chặt vào dây trói cho đổ
xuống, nhưng láu táu thế nào mà chặt không trúng lạt buộc, lại trúng
ngay hai cẳng tay lẫn bàn tay Cụ. Máu từ hai cẳng tay và bàn tay lại
ròng ròng chảy tiếp nhuộm đỏ cột tre và phần đất phía sau lưng Cụ.
Thêm mấy nhát rạ nữa, xác Cụ Nghè mới đổ
sấp xuống. Tên cầm cuốc xỉa 5 răng, loại cuốc chuyên cuốc đất thịt
ruộng khô và vun vồng khoai lang, đứng chực sẵn đó từ trước liền bổ vào
cổ Cụ Nghè rồi lôi xệch xác xuống hố huyệt gần đó. Cái xác rơi nghe
“bịch” xuống đáy hố, không cần biết sấp hay ngửa, mấy đứa liền cào đất
vùi chôn Cụ Nghè như vùi chôn con súc vật thối tha bệnh hoạn có nguy cơ
gây lây lan đại dịch chết người.
Hành động ghê người này, diễn ra
vào những ngày “năm cùng”, “tháng tận” – 27 Tết Nguyên Đán, chỉ có thể
trong phim ảnh dàn dựng thôi chứ làm sao lại có thể diễn ra thật tự
nhiên và bình thường thời đó trên mảnh đất quê tôi vốn hiền hòa, yên
lành của làng, của xã có tên thật mỹ miều, cao đẹp, đầy nhân văn: “Hòa
Ninh”, “Hợp Hòa”, “Vĩnh phước”, “vĩnh Lộc”, “Quảng Hòa”…? Thật trớ trêu
thay. Nhưng đó là 100% sự thật !
Ông Nguyễn Thế Tế còn cho biết, về nhà
ông liền kể lại từ đầu chí cuối cuộc hành hình Cụ Nguyễn Bá Ky vừa xẩy
ra cho Bọ (cha) mình nghe. Ông cụ đau buồn lắm. Ông Tế không quên hỏi
Bọ: “Sao Bác Nghè lại bừng tỉnh khi trúng đạn rồi đột nhiên hô to 3 nần:
“Hồ Chủ tịch muôn năm”? Cụ Nguyễn Thư trả lời con trai: “Có khi ôông
(ông) ấy hô cho con”(?). Dầu đã nghe cha trả lời rành rọt thế, nhưng
suốt mấy ngày sau đó và nhất là nhiều năm sau này, ông Nguyễn Thế Tế
luôn có ý nghĩ trong lòng: Cụ Nghè đến phút cuối cùng bị người của
chính quyền CS giết vẫn tin vào cuộc Cách mạng của Ông Hồ chăng?
Mấy năm sau khi người bạn cũng là “đồng
chí” cùng ngục tù của mình bị giết hại ấy, đến thời kỳ xây dựng HTX hóa
nông nghiệp trên miền Bắc XHCN, Cụ Nguyễn Thư (bà con kính trọng thường
gọi là “Thầy Chắt Thư”), vẫn còn khỏe mạnh sung sức nhưng nghề “Thầy
thuốc chữa bệnh cứu người” rất tâm huyết bấy lâu của Cụ cũng tức tưởi bị
bức tử do chủ trương vô lối “Thầy thuốc cũng phải vào làm ăn tập thể”
để xây dựng CNXH ! Thế là từ đó, Ông trở thành người cày ruộng cho đến
trọn đời (Cụ mất ngày 26/3/1985 – 6/2/Ất Sửu)…Đúng là tình bằng hữu quê
hương cũng như tình đồng chí, bạn tù gắn bó các cụ ngay cả khi số phận
hai người gặp bước điêu linh nhất của cuộc đời.
Ý nghĩ của riêng tôi, nay được đọc bài thơ “Đồng chí của tôi” của Cố Thi sĩ Văn Cao; có lẽ cách hiểu về lời tung hô muôn năm lãnh tụ của Cụ Nghè sẽ như bài thơ giải bày là đúng nhất…
Xin phép Hương hồn Cố thi sĩ Văn Cao,
được chép nguyên văn bài thơ độc đáo này vào phần cuối bài viết của tôi
để bạn đọc cùng chia sẻ.
ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI
Văn Cao
Người ta các đồng chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
1956
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
1956
Hà Nội, 21 giờ 20′ ngày 12/9/2014
LQV