Nguyễn Hưng Quốc
\
Một nền dân chủ không phải là tổng số các thiết chế dân chủ. Có những
nơi và những lúc có các thiết chế dân chủ; ừ, thì cũng bầu cử, cũng có
đối lập, cũng có tam quyền phân lập đàng hoàng nhưng lại vẫn không có
dân chủ. Ngoài vấn đề thiết chế, để có dân chủ, người ta cần một yếu tố
khác: văn hoá dân chủ.
Nói một cách tóm tắt, một nền dân chủ lành mạnh cần được xây dựng
trên một nền văn hoá dân chủ lành mạnh. Không có văn hoá dân chủ, chế độ
độc tài, sau khi bị lật đổ, sẽ dẫn đến tình trạng hoặc hỗn loạn hoặc
một chế độ độc tài khác, có khi còn khắc nghiệt hơn nữa.
Nhưng văn hoá dân chủ là gì?
Nhưng văn hoá dân chủ là gì?
Trước hết, về khái niệm văn hoá: Trong cả mấy trăm định nghĩa khác
nhau về văn hoá, tôi tâm đắc nhất với định nghĩa của các nhà nhân học
(anthropology) trong thời gian gần đây: Đó là một hệ thống biểu tượng, ý
nghĩa, giá trị và quy phạm (norm) chi phối cách nhìn, cách nghĩ, cách
cảm và cách hành xử của cả một cộng đồng đông đảo. Theo cách hiểu ấy,
văn hoá dân chủ có thể được định nghĩa là một hệ thống biểu tượng, ý
nghĩa, giá trị và quy phạm chi phối quan hệ quyền lực giữa những người
cai trị và những người bị trị để mọi người biết phân biệt cái đúng và
cái sai, cái nên và cái không nên, cái có thể chấp nhận được và cái
không thể chấp nhận được, từ đó, biết tương nhượng nhau hầu tạo nên một
cuộc sống hài hoà, ở đó, mọi người đều được tôn trọng.
Trong định nghĩa trên, yếu tố quan trọng nhất là sự tôn trọng những
cái khác và những người khác. Nền độc tài nào cũng được xây dựng trên
tinh thần loại trừ những người khác và những cái khác. Độc tài là một
tâm lý ích kỷ và tự kỷ: Họ chỉ biết có mình họ và những gì quen thuộc
nhất đối với họ. Mọi chế độ độc tài đều bài ngoại, đều kỳ thị chủng tộc
hoặc kỳ thị giai cấp cũng như tôn giáo và phái tính. Văn hoá dân chủ,
ngược lại, đề cao sự khoan dung và hoà đồng.
Việc tôn trọng cái khác dẫn đến đặc điểm thứ hai của văn hoá dân chủ: sự tương nhượng.
Về phương diện xã hội, giữa người này và người kia, giữa tầng lớp này
và tầng lớp nọ, bao giờ cũng có những khác biệt nhất định. Cách giải
quyết các sự khác biệt ấy sẽ dẫn đến độc tài và dân chủ. Độc tài: khi
người hoặc nhóm người này nhất định dùng sức mạnh để cưỡng bức những
người khác. Dân chủ: khi mọi người biết ngồi lại với nhau để cùng nhau
thương thảo trong tinh thần cả hai cùng thắng (win-win), nghĩa là mỗi
người nhường nhau một chút.
Về phương diện chính trị, ở các quốc gia dân chủ phương Tây, bất cứ
chính phủ nào cũng được bầu lên từ hơn nửa số cử tri trong cả nước.
Không có ai chiếm được 100% số phiếu. Thường thì chỉ quá bán một chút,
tức khoảng trên 50%. Điều đó có nghĩa là không có một chính phủ nào thực
sự đại diện cho nhân dân nói chung. Và cũng không có một chính phủ nào
có được một thứ quyền lực tuyệt đối. Trong quá trình soạn thảo và thông
qua các sắc luật và các chính sách, lúc nào họ cũng đối đầu với sự phản
đối của các phe đối lập cũng như một bộ phận dân chúng nào đó. Bổn phận
của chính phủ, do đó, phải đàm phán với những người ấy, cuối cùng, mỗi
bên nhượng bộ nhau một chút để đi đến một chính sách chung. Trong ý
nghĩa ấy, có thể nói thực chất của chính trị dân chủ là việc giải quyết
các xung khắc về quyền lợi và quan điểm bằng biện pháp thảo luận để,
cuối cùng, đi đến một sự đồng thuận.
Một văn hoá dân chủ bao giờ cũng là một văn hoá dân sự (civic
culture) nơi các công dân ý thức vai trò và trách nhiệm của mình đối với
cái chung. Các lý thuyết gia về chính trị hầu như đồng ý với nhau điểm
này: các chế độ toàn trị và độc tài bao giờ cũng tìm cách truyền bá và
nuôi dưỡng thứ văn hóa thụ động và vô cảm để người dân không quan tâm
đến chính trị, bất kể số phận của dân tộc và của chính mình. Văn hóa dân
chủ, ngược lại, khuyến khích mọi người tham gia thảo luận và phản biện,
có tinh thần trách nhiệm và ý thức sâu sắc về các quyền của mình. Bằng
cách hành xử như thế, mỗi người sẽ là một nhà dân chủ. Có những chế độ
độc tài nhưng không có nhà độc tài (như trường hợp của Việt Nam hiện
nay), nhưng tuyệt đối không thể có một chế độ dân chủ mà lại không có
các nhà dân chủ. Những nhà dân chủ ấy là những công dân bình thường chứ
không phải là những nhà lãnh đạo.
Cuối cùng, văn hóa dân chủ là một văn hóa tôn trọng pháp luật. Ví dụ,
sau khi bầu cử một cách minh bạch, phe thất bại phải chấp nhận kết quả
bầu cử chứ không đòi xóa kết quả để bầu lại cho đến khi nào mình thắng.
Đó là trường hợp của Thái Lan trong một hai thập niên gần đây. Các cuộc
biểu tình làm tê liệt mọi hoạt động chính trị ở đó đều xuất phát từ tinh
thần thiếu tôn trọng luật chơi của dân chủ. Tôi thích thái độ của các
chính trị gia Tây phương hơn. Sau khi biết kết quả bầu cử, lãnh đạo phe
bại bao giờ cũng điện thoại cho đối thủ để, một mặt, thừa nhận mình
thua, mặt khác, chúc mừng kẻ chiến thắng. Kẻ chiến thắng, cũng vậy,
trong diễn văn đầu tiên, bao giờ cũng, một mặt, cám ơn những người bỏ
phiếu cho mình; mặt khác, hứa hẹn sẽ phục vụ cho cả nước chứ không phải
chỉ riêng cho đảng mình hoặc những người đã bỏ phiếu cho mình.
Dĩ nhiên, trong cái gọi là văn hóa dân chủ ấy còn nhiều yếu tố và đặc
điểm khác. Ở đây, tôi chỉ xin dừng lại ở những điểm chính. Những điểm
ấy khá đơn giản, nhưng để có được, cần có thời gian học hỏi và rèn
luyện. Người ta thường nói chính trị nhất thời còn văn hóa thì lâu dài.
Văn hóa chính trị, trong đó, có văn hóa dân chủ, cũng vậy: Nó cần thời
gian để phát triển.