Nguyễn Trung
I. Đánh giá khái quát con đường 40 năm
Góp phần tổng kết kinh tế mà đại hội XII nhất thiết phải làm, tôi
xin nêu lên một số nhận xét chính dưới đây, trước khi bàn đến chủ đề
hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong bài 2 (Hiểm họa đen)và bài 3 (Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?),
tôi cho rằng 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên là một thời kỳ phát
triển thất bại, hoặc dễ nghe hơn: cơ bản là thất bại (song “dễ nghe hơn”
như thế chẳng ích lợi gì thêm cho đất nước).
Nói là thất bại, bởi lẽ: Không đạt được các mục tiêu
chiến lược, thành tựu hay kết quả thu được không xứng với thời gian,
công sức, của cải đã bỏ ra và những cơ hội có được. Bao trùm lên tất cả
là đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại, đến 1986 phải xoá bỏ
nền kinh tế bao cấp để tiến hành đổi mới, đề ra cái gọi là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, song thực chất vẫn là để
kiên trì chủ nghĩa xã hội mà chính tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có
lần thừa nhận chưa rõ nó sẽ là cái gì. Đường lối sai, sửa lại rồi mà
cũng không rõ được, như thế làm sao có thể thành công được? Cho nên thất
bại là tất yếu. Dưới đây xin điểm lại cho rõ.
Trong 40 năm này, nước ta mất trên dưới mười năm vào hai cuộc chiến
tranh tiếp theo kháng chiến chống Mỹ (chiến tranh Campuchia, chiến tranh
Trung quốc xâm lược biên giới), lại thêm những thất bại trong đường lối
kinh tế bao cấp kéo dài cho đến khi tiến hành đổi mới 1986. Thời kỳ 10
năm này (1975 - 1986, về những mặt nào đó phải tính đến 1989) đảng đã
vấp phải những sai lầm rất nghiêm trọng cả về đối nội (bao gồm cả kinh
tế) và đối ngoại, với nhiều hậu quả lâu dài. Nguyên nhân chủ yếu là chủ quan, duy ý chí, không hiểu thế giới và không hiểu chính bản thân nước ta: Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội! Từ nay không có kẻ thù nào dám động đến ta! – Đương
nhiên, những nguyên nhân khách quan cũng rất quan trọng, có những mặt
bất khả kháng, song dù sao vẫn phải nói những nguyên nhân chủ quan của
lãnh đạo là những tác nhân trực tiếp của những sai lầm thời hậu chiến.
Trong những nguyên nhân chủ quan, cái nguyên nhân không hiểu thế
giới, không hiểu chính bản thân nước ta cho đến hôm nay vẫn đang là một
cái u-bướu chết người trong não bộ tư duy của ĐCSVN.
Kinh tế nước ta thực sự phát triển kể từ khi tiến hành đổi mới 1986,
ngày nay đạt mức “nước đang phát triển có thu nhập trung bình (thấp)”[1].
Nếu so sánh nước ta hôm nay với nước ta 1986, kinh tế nước ta đã đi
được một chặng đường dài: từ nước chậm phát triển lên nước đang phát
triển, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng được thế
giới ghi nhận. Đã có lúc kinh tế nước ta giành được sự phát triển ngoạn
mục (nhất là thời kỳ 1986 – 1995…), trên thế giới người ta đã bắt đầu
nói tới “con hổ Việt Nam”, nhưng con hổ này chưa kịp cất lên tiếng gầm
nào thì đã biến mất tăm.
Song nếu so nước ta với các nước chung quanh, khoảng cách tụt hậu
của ta ngày càng rộng thêm. Ví dụ: năm 1986 GDP p.c. (GDP tính theo đầu
người) của Trung Quốc gấp đôi của nước ta, năm nay cao gấp trên 3 lần;
khoảng cách lúc ấy (1986) GDP p.c.Trung Quốc cao hơn nước ta ước chừng
<+200 USD, nhưng khoảng cách này hiện nay là <+4000 USD; so với
các nước đi trước ta trong ASEAN cũng cho thấy mối tương quan như vậy.
Nghĩa là 3 thập kỷ vừa qua, càng chạy đua ta càng tụt hậu.
Điều đặc biệt đáng lo ngại là sau 3 thập kỷ phát triển (kể từ 1986),
kinh tế nước ta đã tận dụng hết (đến mức cạn kiệt) mọi yếu tố nội/ngoại
có được cho phát triển theo chiều rộng, song vẫn chưa tạo ra được nền tảng kinh tế vững chắc để đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Cho đến ngày hôm nay, nước ta mới chỉ tạo ra được một nền kinh tế gia công. Nói nôm na, đấy là một nền kinh tế chỉ bán đi được những thứ ta tự có: lao động rẻ, tài nguyên, đất đai, môi trường, vị trí địa lý… Cho đến hôm nay chưa đi vào được phát triển một nền kinh tế bán các sản phẩm ta tự làm ra
– với nghĩa có hàm lượng cao về trí tuệ và công nghệ; bởi vì còn thiếu
nghiêm trọng những điều kiện tiên quyết cho thời kỳ phát triển mới này
trên những phương diện: chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục,
thể chế chính trị quốc gia, thể chế kinh tế thị trường thực thụ, lực
lượng doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng vất chất kỹ thuật… Kinh tế đã đi hết
đoạn đường phát triển theo chiều rộng, nhưng hôm nay đang lâm vào khủng
hoảng cơ cấu trầm trọng, nên vừa bế tắc (cái bẫy “nước có thu nhập
trung bình – thấp”), và vừa chưa chuẩn bị được những điều kiện phải có cho việc chuyển nền kinh tế vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu.
Còn 6 năm nữa, năm 2020, nước ta phải trở thành nước công nghiệp,
hoặc là “cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (một khái niệm
rất “cao-su” và rất thiếu trách nhiệm với đất nước) – như đã ghi trong
nhiều nghị quyết của đảng, song mục tiêu này không thể hoàn thành được,
vì trình độ phát triển nền kinh tế còn ở mức quá thấp nhìn theo bất kỳ
tiêu chí nào (tỷ trọng các khu vực kinh tế - economic sectors, tỷ trọng
phân bổ các loại lao động, tỷ trọng kinh tế nông thôn và kinh tế thành
thị…, các chỉ số phát triển tính theo đầu người về kết cấu hạ tầng vật
chất & kỹ thuật, vân vân..; riêng chỉ số bằng thạc sỹ, tiến sỹ tính
theo đầu người và trong bộ máy quyền lực, nước ta vượt xa Hàn Quốc, Nhật
Bản và nhiều nước phát triển khác). Đặc biệt nghiêm trọng là nước ta
không có một thể chế chính trị quốc gia phù hợp cho một nước công nghiệp
hoá, chính điều này trước sau vẫn chặn đứng khả năng nước ta sẽ trở
thành một nước công nghiệp. Điều cần lưu ý ở đây, sau 3 thập kỷ tiến
hành công nghiệp hoá (chỉ tính từ 1986), nước ta huy động được một nguồn
lực nội và ngoại nhiều gấp hơn 2 lần của Hàn quốc cho 3 thập kỷ công
nghiệp hoá của họ. Song sau 3 thập kỷ này, Hàn Quốc hoàn thành được
nhiệm vụ công nghiệp hoá; nhưng nước ta không hoàn thành được nhiệm vụ
này, lại rơi quá sớm vào quá trình giải công nghiệp hoá, và hôm nay vẫn
là một nền kinh tế gia công đang bế tắc vì khủng hoảng cơ cấu trầm
trọng.
Nói khái quát, nước ta đang có một nền kinh tế “đắt”, “rất đắt” nhìn
theo hiệu quả kinh tế trên mọi phương diện: chỉ số ICOR cao nhất trong
ku vực, tỷ suất lợi nhuận rất thấp, mức độ tiêu thụ năng lượng và nguyên
liệu trên một sản phẩm thuộc loại cao nhất ĐNÁ và năng suất lao động
thuộc loại thấp nhất... Ngoại trừ một số ít ngành đặc thù trong lắp ráp
và gia công, nhìn chung công nghệ trong công nghiệp nước ta chủ yếu
thuộc thế hệ 3 hoặc 4 (phần lớn là mới xây lắp dưới dạng EPC từ Trung
Quốc). Tham nhũng rất trầm trọng, song lãng phí – nhất là lãng phí do
những quyết định kinh tế sai lầm, những dự án treo, những quy hoạch phá
sản ở khắp cả nước… – còn trầm trọng hơn nhiều.
Tựu trung là do đã theo đuổi một chiến lược phát triển sai lầm[2] trong một thể chế chính trị bất cập. Nổi cộm là các vấn đề:
(1) Công nghiệp rất chắp vá và chưa định hình được nước ta sẽ là một
nước công nghiệp gì nếu thu hẹp dần công nghiệp gia công (đang rất
thiếu công nghiệp phụ trợ); có lẽ phải nói công nghiệp nước ta dựa vào
lợi ích của doanh nghiệp nhà nước (chứ không phải của quốc gia) và dựa
vào tranh thủ được FDI như thế nào thì phát triển thế nấy – nghĩa là rất
tự phát, duy ý chí và do bên ngoài chi phối là chính, rất bị động, khó
mà nói phát triển theo một chiến lược rõ nét hay nhất quán nào của ta,
lại thay đổi theo từng khoá đại hội đảng (tư duy nhiệm kỳ). Cần coi đây
là một xu thế phát triển nguy hiểm, hiện tại đã bế tắc, hứa hẹn sẽ đổ vỡ
trầm trọng trong tương lai không xa nếu không uốn nắn kịp thời, và nếu
không tìm ra được một chiến lược công nghiệp hoá đúng đắn được thực hiện
trong một thể chế chính trị phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá.
(2) Nông nghiệp là vấn đề rất nhậy cảm ở nước ta trên nhiều phương
diện, nhưng đang bế tắc nghiêm trọng về mọi phương diện, chủ yếu do sai
lầm về chính sách đất đai, thất bại trong quá trình công nghiệp hoá / đô
thị hoá, thất bại trong phát triển hay trong nhiệm vụ công nghiệp hoá
nông nghiệp giữa lúc kinh tế cả nước đã hội nhập vào quá trình toàn cầu
hoá như ngày nay… Mặc dù có vị thế nhất định trong một số sản phẩm trên
thị trường nông phẩm thế giới, nông nghiệp nước ta còn đứng rất xa yêu
cầu là một nền nông nghiệp tiến dần lên hiện đại của một quốc gia đang
trong quá trình công nghiệp hoá. Thậm chí còn phải nói, một nền nông
nghiệp như hiện tại tự nó cũng sẽ chặn đứng khả năng nước ta trở thành
nước công nghiệp (trong khi đó Hàn Quốc, Đài Loan trong vòng 2 thập kỷ
đầu tiên của công nghiệp hoá đã giải quyết được vấn đề phát triển nông
nghiệp đồng hành với quá trình công nghiệp hoá, hiện nay ta đang “học” tam nông của Trung Quốc, nhưng?..);
(3) Khu vực dịch vụ phát triển khả quan hơn (trong đó nổi bật là du
lịch, viễn thông, hàng không…), song cũng đã hết đà phát triển theo
chiều rộng; đất nước chưa có được nguồn nhân lực có chất lượng, thể chế
nhà nước thích hợp và kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật tương ứng để đi
vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Khu vực dịch vụ chủ yếu mới chỉ
phát triển trong một số ngành, trong khi đó hầu như chưa đi vào được rất
nhiều ngành nghề quan trọng khác của dịch vụ mà điều kiện địa lý tự
nhiên và địa lý kinh tế/chính trị của nước ta cho phép (ví dụ, có thể
phân tích khu vực dịch vụ của nền kinh tế Singapore để thấy rõ những
ngành kinh tế nào của dịch vụ nước ta chưa đụng chạm tới). [Nhân đây xin
nói ngay: Cần loại bỏ mong muốn bệnh hoạn của một số người nào đó muốn
phát triền casinos ở nước ta, bởi lẽ tình trạng tha hoá hiện tại trong
xã hội nước ta đã vượt quá xa mức có thể kiểm soát được.]
(4) Nền tài chính quốc gia và hệ thống ngân hàng của đất nước rất
mong manh, nợ nần nhiều – trong đó tỷ lệ nợ xấu rất cao, tính công khai
minh bạch và năng lực quản trị rất thấp. Sự can thiệp của chính trị (bao
gồm cả nhóm lợi ích) ở mức nguy hiểm, có nhiều đối phó cục bộ (như lãi
suất, thuế suất, giá vàng, trái phiếu, đáo nợ…) tuy có lúc đem lại kết
quả tạm thời, song chung cuộc đang tích tụ những nguy cơ đổ vỡ nguy
hiểm. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng là nền tài chính quốc gia và hệ
thống ngân hàng của đất nước tự nó đã góp phần quan trọng vào những cuộc
khủng hoảng kinh tế lớn của đất nước, không hoàn thành được nhiệm vụ
chính trị số một của nó là: Huy động và phân bổ tối ưu mọi nguồn lực cho
sự phát triển năng động và bền vững của đất nước.
(5) Thất bại lớn nhất của 40 năm qua là đã không xây dựng nên được
một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ mang lại độc lập
tự do và hạnh phúc cho nhân dân như đã ghi trong tiêu chí quốc gia[3]
và giải phóng tiềm năng phát triển của đất nước, nhiều quyền cơ bản của
công dân và quyền con người bị ngăn cấm hoặc xâm phạm nghiêm trọng.
Trong thất bại này cần đặc biệt nêu lên thảm bại nghiêm trọng của nền
giáo dục nước nhà đang để lại những hậu quả rất lâu dài cho đất nước.
Sau 40 năm phát triển, đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện
(kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội), bị lệ thuộc nguy hiểm vào
Trung Quốc, độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bi uy
hiếp hơn bao giờ hết kể từ sau 30-04-1975. Nghiêm trọng hơn nữa: Sau 4
thập kỷ độc lập thống nhất, phải chăng đất nước chúng ta hiện đang lâm
vào tình trạng mất phương hướng phát triển giữa lúc tình hình khu vực và
thế giới đang có nhiều thách thức nặng nề, và thậm chí trở nên nguy
hiểm hơn trước?
II. Những khuyết tật lớn trong kinh tế thị trường nước ta
Trước hết về quan niệm, quan sát sự phát triển của các nước tiên
tiến trên thế giới, tôi xin rút ra những điều dưới đây về kinh tế thị
trường.
Tinh thần cốt lõi của kinh tế thị trường là hình thành một quá trình
phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt của những lực đẩy được tạo ra từ mối
quan hệ qua lại giữa cầu và cung trên thị trường.
Cầu và cung ở đây cần được hiểu là những đòi hỏi trong đời sống
hướng tới một sự phát triển mới, cần đặt vấn đề như vậy để luôn luôn chủ
động tránh những khuynh hướng phát triển hoang dã hoặc thiên lệch nguy
hiểm.
Đối với cả cầu và cung, thị trường luôn luôn có thể làm được chức
năng điều tiết ở mức độ nhất định, được đặt cho cái tên là “bàn tay vô
hình” (Adam Smith), bởi vì nó làm những việc khó thấy được liên quan đến
điều tiết nền kinh tế (yếu tố 1).
Song vì khả năng của “bàn tay vô hình” là hữu hạn, mà cuộc sống là
vô hạn, do đó kinh tế thị trường còn phải cần đến “bàn tay bà đỡ” –
thường là và trước hết là thuộc về chức năng của nhà nước. Xã hội càng
phát triển, ngày càng có thêm nhiều yếu tố khác tham gia tích cực vào
chức năng của “bàn tay bà đỡ” (yếu tố 2).
Điều thiết yếu là bàn tay vô hình và bàn tay bà đỡ đều phải làm đúng
việc của mình với hiệu quả cao nhất. Vì lẽ này cả hai đều phải được một
bộ não mẫn tiệp điều hành, có thể xem đây là điều kiện quyết định nhất.
Bộ não ấy chính là một thể chế chính trị đáp ứng được đòi hỏi phát
triển của quốc gia, phát huy được vai trò tích cực của giới doanh nhân
(bao gồm các doanh nghiệp), phát triển được một xã hội dân sự năng động,
luôn luôn cổ vũ và dẫn dắt được quốc gia giành lấy những bước phát
triển mới (yếu tố 3).
Nêu lên những điều vừa trình bầy trên, nhằm mục đích nhấn mạnh ngay từ đầu: Nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh nhất thiết phải bao gồm đầy đủ cả 3 yếu tố (1) bàn tay vô hình, (2) bàn tay bà đỡ, (3) thể chế chính trị; tất cả phải hoạt động ở trạng thái tối ưu cho phép – trong đó thể chế chính trị là điều kiện tiên quyết số một.
Đây cũng là 3 tiêu chí có thể dựa vào để đánh giá thực trạng kinh tế
thị trường nước ta hiện nay. Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước
ta cũng có nghĩa phải bàn về phát triển đồng bộ cả 3 yếu tố cấu thành
này của kinh tế thị trường.
Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề nóng nhất.
II.1. Sự lũng đoạn của quyền lực và nhóm lợi ich
Bài 4A “Bàn về cải cách thể chế chính trị”
đã cố gắng trình bầy sự lũng đoạn của quyền lực đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung, trong đó vấn đề nghiêm trọng số 1 là
tình trạng “đảng hoá” toàn bộ đời sống đất nước. Tại đây xin nêu thêm
một số khía cạnh liên quan đến kinh tế thị trường.
Thể chế chính trị ở nước ta với đặc trưng đảng giữ vai trò lãnh
đạo toàn diện và tuyệt đối như đang diễn ra, về bản chất mâu thuẫn như
nước với lửa đối với kinh tế thị trường. Chính đây là nguyên nhân gốc
khiến cho kinh tế thị trường ở nước ta biến dạng nghiêm trọng, bị điều
hành và lũng đoạn bởi (a) quyền lực đảng, (b) chủ nghĩa tư bản thân quen
và chủ nghĩa tư bản hoang dã, (c) sự chi phối của lobby từ bên ngoài –
đặc biệt là quyền lực mềm Trung Quốc.
Thực hiện kinh tế thị trường là đòi hỏi bất khả kháng đối với nước
ta kể từ bắt đầu đổi mới 1986, đến nay là 3 thập kỷ. Nước ta đã tham gia
đầy đủ các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực (WTO, WB, IMF, ADB, các
FTAs song phương và đa phương, vân vân…), nhờ đó kinh tế thị trường ở
nước ta đã đạt được những bước phát triển rất quan trọng, GDP p.c. từ
200 USD nay đạt 1350 USD... Tuy nhiên, nguyên nhân thể chế chính trị
(nguyên nhân gốc) nêu trên đã một mặt làm cho không ít những tiến bộ đạt
được này đều ở trong tình trạng dang dở, mặt khác chỉ làm biến tướng để
tăng thêm độ nguy hiểm chứ không khắc phục được sự lũng đoạn nêu trên
(của 3 nhóm a, b, c). Có lẽ chính thực tế này giải thích hiện tượng: Tại
sao kinh tế nước ta càng phát triển, càng bị xé lẻ thành các “tiểu
vương quốc” theo lợi ích (các nền kinh tế GDP tỉnh, các nền kinh tế tập
đoàn nhà nước, kinh tế đảng, kinh tế quân đội, kinh tế công an…) càng
phát sinh nhiều ách tắc trong kinh tế và nhiều bất công trong xã hội,
môi trường càng bị huỷ hoại nghiêm trọng, hầu hết các chiến lược kinh tế
đều thất bại, tội ác kinh tế ngày càng nguy hiểm về quy mô và tinh vi
về thủ đoạn thực hiện, phát triển hầu như cướp mất cơ hội của tương lai
(nghĩa là để quá nhiều gánh nặng cho tương lai), và hiện nay kinh tế đất
nước đang ở trạng thái nguy hiểm chưa có lối ra.
Thật khó mà nói được là nước ta có một nền kinh tế hài hoà thống
nhất với đúng nghĩa, vì bên trong chứa đựng quá nhiều nét cát cứ, “tiểu
vương quốc” và sự chùng lặp… Có thể viết nhiều quyển sách mổ xẻ thực
trạng này của đất nước, song hiện nay việc này bị kiêng cấm, nhưng trước
sau sẽ phải làm để chữa bệnh. Nói khái quát: Đảng hoá, nền kinh tế GDP
tỉnh, tập đoàn kinh tế nhà nước và tư tưởng nhiệm kỳ là những yếu tố
trực tiếp làm nát bét nền kinh tế đất nước, tạo ra môi trường màu mỡ cho
sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.
Chức năng khách quan của thị trường là phản ánh mối quan hệ cung -
cầu tạo điều kiện góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hoà. Nhưng
vi phạm điều mang tính quy luật này của thị trường, sẽ tạo ra đầu cơ,
thị trường của đầu cơ, và chung cuộc sẽ chỉ có được nền kinh tế của
những hành vi đầu cơ, với sự phá hoại không thể hình dung nổi.
Ví dụ, thời bao cấp trước 1986, vì phá quy luật kinh tế thị trường,
nên đã xảy ra hiện tượng một cái xe đạp Peugeot có thể đổi lấy một căn
nhà, một điều phi lý không thể phi lý hơn trên thế gian này.
Còn hiện tại: Xâm phạm quy luật của kinh tế thị trường đã dẫn đến hệ
quả cả một đất nước năng động rừng vàng biển bạc… nhưng hôm nay rơi tỏm
vào nền kinh tế của những người đi làm thuê và đất nước trở thành đất
nước cho thuê.
Dưới đây là một số nét minh hoạ.
- Sáp nhập Hà Tây vào thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình của kinh
tế đầu cơ, là một trong những nguyên nhân trực tiếp tạo ra bong bóng
kinh hoàng của thị trường bất động sản, mặc dù quyết định này bị cả nước
bác bỏ quyết liệt (trong đó có Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt…), nhưng lợi
ích của 3 nhóm “a, b, c” đã thắng. Cả nước có nhiều cái bong bóng như
thế và đã dẫn tới giá nhà đất của Việt Nam cao nhất thế giới, cản trở sự
phát triển của đất nước. Song cũng chính loại những quyết định theo
“lợi ích 3 nhóm a, b, c” như thế đã trực tiếp làm nổ các bong bóng của
thị trường địa ốc, khiến kinh tế cả nước rơi sâu thêm nữa vào khủng
hoảng cơ cấu với những thiệt hại không thể lường hết được.
- Kinh tế bauxite Tây Nguyên, kinh tế KCN Vũng Áng, nạn cho thuê
rừng… là những ví dụ điển hình của kinh tế lobby, của kinh tế bán rẻ lợi
ích quốc gia, của kinh tế đất nước cho thuê, đẩy đất nước đi sâu vào cơ
cấu kinh tế lạc hậu và nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp cho những
nước khác, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích và an ninh quốc gia.
- Phớt lờ những tín hiệu của thị trường, kinh tế tập đoàn nhà nước
TKV (than và khoáng sản Việt Nam) lẽ ra phải biết mình hết lý do tồn tại
từ lâu rồi nhưng vẫn cố đấm ăn xôi; hậu quả là mỏ hết và đã phải nhập
khẩu than ngược trở lại rồi, hầu như toàn bộ vốn thiết bị của tập đoàn
và hàng vạn lao động của nó rơi vào thất nghiệp, tập đoàn lấy duy trì
kinh doanh/liên doanh trái nghề để tồn tại. Nhưng tập đoàn chỉ có đặc
quyền nà nước bao cấp (vốn, quyền kinh doanh, ảnh hưởng chính trị…) và
không có nghề, do đó tất yếu gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội:
Chết mà không chôn được, nên kinh lắm! Cả nước có không ít tập đoàn nhà
nước, nông trường quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh… chết rồi mà không
chôn được.
- Quản lý nhà nước bất cập và chính sách đất đai hiện hành dẫn tới
hệ quả giá thành xây dựng 1km đường cao tốc ở Việt Nam đắt khoảng 5 – 10
lần so với Thái Lan, so với các nước phát triển khác.., thời gian thi
công cũng dài hơn nhiều lần như thế, chất lượng cũng thấp hơn nhiều lần
như thế…
- Nền kinh tế có quá nhều hành vi đầu cơ lũng đoạn, nên ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng FDI thu hút được. Vì thế khối lượng FDI thu
hút được tuy không nhỏ, nhưng không đẩy nhanh được việc chuyển đổi cơ
cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. Thu hút FDI như hiện nay
có nguy cơ kéo dài sự tụt hậu của đất nước… Đúng là thị trường Việt Nam
vẫn đang rất hấp dẫn đối với FDI, vì là quốc gia có nhiều tiềm năng lớn
và giữ vị thế quan trọng trong khu vực trên cả hai phương diện kinh tế
và chính trị. Tuy nhiên thể chế chính trị và thể chế kinh tế của đất
nước hiện nay là rào cản lớn trong việc thu hút FDI có chất lượng. Đã
đến lúc phải chấm dứt xu thế tranh thủ FDI với bất kỳ giá nào như đã
diễn ra trong 3 thập kỷ vừa qua.
- Vân vân…
II.2. Bàn tay bà đỡ còn nhiều yếu kém
Nhìn chung nhà nước làm không tốt vai trò “bà đỡ”; cụ thể là vừa
không làm đúng chức năng của mình, vừa can thiệp quá sâu vào kinh tế,
khiến cho đòi hỏi cải thể chế kinh tế ngày càng nóng bỏng.
Những năm gần đây nhiều công trình nghiên cứu đã đi tới kết luận:
(a) Môi trường kinh doanh bị nạn quan liêu và tham nhũng lũng đoạn
nghiêm trọng, trong đó nổi bật là: quyền kinh doanh và quyền sở hữu bị
xâm phạm, luật thường bị lách hoặc thay thế bằng “làm luật” và lobby,
hiện tượng “bộ chủ quản” và nhiều hình thức “chủ quản” khác đang hồi
sinh khiến thị trường bị các hoạt động theo “lãnh địa” của các nhóm lợi
ích chi phối;
(b) Thiếu vai trò trung gian hữu hiệu của các tổ chức phục vụ các
doanh nghiệp trên các phương diện tài chính, luật pháp và kỹ thuật.., do
đó tăng thêm giá thành và nguy cơ rủi ro trong sản xuất và kinh doanh –
nhất là của các xí nghiệp nhỏ và vừa;
(c) Yếu kém của thể chế chính trị và thể chế kinh tế dẫn tới làm suy
giảm nghiêm trọng khả năng hoạt động và tính hiệu quả của các công cụ
hướng dẫn hay điều tiết thị trường, ví dụ như lãi suất, tỷ giá, các
khuyến khích, các sắc thuế, các chính sách điều tiết khác, vân vân..;
(d) Cùng với những yếu kém của thị trường, hệ thống thống kê và
thông tin kinh tế không chuẩn xác (hoặc cố ý che giấu hay tô hồng), làm
cho những tín hiệu của thị trường giảm hoặc mất độ tin cậy, gây nguy
hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hệ điều hành, gia tăng các yếu
tố đầu cơ;
(e) Do những yếu kém nhiều mặt của kinh tế thị trường, ước lượng
Việt Nam chỉ tận dụng được khoảng 30% các hiệp định khung song phương,
đa phương và quốc tế đã ký kết, nên không cải thiện được bao nhiêu năng
lực cạnh tranh, chưa tham gia sâu được vào các chuỗi sản phẩm mặc dù nền
kinh tế nước ta có tỷ trọng xuất khẩu rất cao, thậm chí có nhiều thua
thiệt ngay cả trên thị trường nội địa vì không tân dụng được những điều
đã ký kết, vân vân… Mặt khác, hội nhập sâu rộng mà không nâng cao được
năng lực cạnh tranh đã khiến nước ta rơi vào thế lệ thuộc ngày càng nặng
nề vào bên ngoài về vốn (ODA, FDI, các khoản vay khác), nguồn cung đầu
vào – đặc biệt từ Trung Quốc (tổng thầu các dự án, các sản phẩm trung
gian), và một số lĩnh vực khác (FDI chi phối 65% xuất khẩu và gần 50%
công nghiệp).
(f) Khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước,
chiếm tới trên 60% vốn của toàn xã hội, hiệu quả kinh tế thấp, nợ nần
lớn, sau nhiều năm cải cách đi cải cách lại khu vực kinh tế quốc doanh
hiện nay chiếm vai trò chủ đạo trong nợ của quốc gia và là nơi có nhiều
ung nhọt nguy hiểm cho cả nền kinh tế; đặc biệt nghiêm trọng là hiện
tượng kinh doanh/liên doanh trái nghề và hiện tượng sở hữu chéo của các
tập đoàn nhà nước một mặt vô hiệu hoá đáng kể khả năng quản lý của nhà
nước và hệ thống luật pháp, mặt khác chèn ép nguy hiểm các doanh nghiệp
nhỏ và vừa;
(g) Chưa tạo ra được một thị trường phục vụ tốt nông nghiệp trên cả 2
phương diện đầu vào và đầu ra, khiến cho nông dân bị thiệt thòi nghiêm
trọng và chịu đựng nhiều bất công, đồng thời hạn chế khả năng cải tiến
hay hiện đại hoá nông nghiệp; sau gần hai thập kỷ tham gia WTO và nhiều
hiệp định khung khác nước ta vẫn lạc hậu và phải chịu nhiều thua thiệt
lớn trong xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực như gạo, cà-phê,
cao su, thuỷ sản, tiêu…
(i) Còn thiếu nhiều chính sách và biện pháp thiết thực tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, nâng cao
chất lượng và vai trò của giới doanh nhân đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước, nhất là trên các phương diện: nâng cao năng lực kinh
doanh, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cải tiến các mô hình
doanh nghiêp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đỡ đầu các sản phẩm mới, tham
gia xây dựng các chính sách vỹ mô và vi mô, thể chế, chiến lược phát
triển… (còn thiếu những quyết sách làm cho doanh nhân và các nhà công
nghệ trở thành những người trực tiếp thúc đẩy và mở mang kinh tế; xin
lưu ý: doanh nhân mới là người trực tiếp tạo ra công ăn việc làm và làm
giầu cho đất nước);
(j) Trước sau không thể duy trì vai trò ngân hàng nhà nước với tính
cách như là một công cụ của quyền lực như hiện nay (nguyên nhân gốc của
lạm phát và của tình hình chi tiêu cũng như phân bổ nguồn lực không thể
kiểm soát được). Dứt khoát phải sớm tính đến vai trò độc lập của ngân
hàng nhà nước như một công cụ của nhà nước pháp quyền, phải hoạt động
theo hiến pháp, chỉ chịu sự giám sát duy nhất của hiến pháp và quốc hội,
qua đó trở thành công cụ tài chính quốc gia duy nhất, không thuộc bất
kỳ đảng phái hay quyền lực chính trị nào, nhằm đạt hiệu quả tốt nhất đối
với toàn bộ nền kinh tế - đây là một trong những điều kiện tiên quyết
không thể thiếu của nhà nước pháp quyền cũng như nền kinh tế thị trường.
Cùng với vai trò độc lập này của ngân hàng nhà nước là vai trò độc lập
của hệ thống thống kê nhất thiết phải tôn trọng, cùng với cùng một lý do
như ngân hàng nhà nước;
(…)
Tựu trung có thể nhận xét, vai trò “bà đỡ” của nhà nước còn đứng khá
xa đòi hỏi mang lại cho đất nước có một nền kinh tế thị trường được
thúc đẩy bằng sự vận động của quy luật cung – cầu và sự dẫn dắt của một
thể chế chính trị khuyến khích sự phát triển đất nước bằng những chính
sách vỹ mô đúng đắn. Những điều trình bầy trong phần II này cho thấy đòi
hỏi bức xúc phải tiến hành cải cách thể chế chính trị là trọng tâm số
một, song rõ ràng phải luôn luôn gắn với cải cách thể chế kinh tế để duy
trì được tình hình: Cải cách thể chế chính trị phải gắn liền với những
phát triển đạt được trong kinh tế, lấy thành quả này thúc đẩy cải cách
thể chế chính trị. Kinh nghiệm Myanmar khác hẳn với thực tiễn cải cách ở
Liên Xô cuối những năm 1980 ở chỗ từng bước tiến bộ trong cải cách
chính trị ở Myanmar đều được hậu thuẫn bằng những tiến bộ cụ thể trong
cải cách kinh tế, mặc dù nội tình Myamar khó khăn hơn Liên Xô hồi đó
nhiều.
III. Một số gợi ý
Sự thật kinh tế đất nước đang ở trong một giai đoạn có nhiều
khó khăn nghiêm trọng của khủng hoảng cơ cấu kinh tế còn kéo dài, mặc
dù hai năm gần đây bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Có 4 vấn đề lớn nóng
bỏng trong những năm tới nhất thiết phải giải quyết xong một cách cơ bản
vào khoảng năm 2020:
- Cơ cấu lại nền kinh tế với mục tiêu giảm bớt lệ thuộc vào bên
ngoài, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các khu vực kinh tế
trong nước, và phát triển sản phẩm mới, chuyển đổi sang thời kỳ phát
triển theo chiều sâu;
- cơ cấu lại thị trường tài chính tiền tệ để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực và kiểm soát được vấn đề nợ;
- cơ cấu lại khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước để trực tiếp góp phần vào đổi mới cơ cấu kinh tế;
- từng bước xử lý vấn đề nợ xấu đang trở nên nguy hiểm.
Cả 4 vấn đề nêu trên đều mang tính cơ cấu nên khó, vừa đòi hỏi nhiều
nguồn lực, vừa đòi hỏi nhiều thời gian, không thể đồng loạt giải quyết.
Thiết kế các giải pháp từng bước cho từng vấn đề lớn này, và thực thi
hài hoà với việc giải quyết từng bước cả 4 vấn đề lớn này như thế nào…
là những bài toán khó. Càng không thể tạo ra tăng trưởng cao trong những
năm tới này; tăng trưởng như hiện nay không có chất lượng mong muốn và
không tạo ra phát triển mới sẽ chỉ có nghĩa làm cho khủng hoảng sâu sắc
hơn. Chưa nói đến sắp tới nếu thiếu những biện pháp thắt lưng buộc bụng
gắt gao và có hiệu quả sẽ khó tránh đổ vỡ tiếp – trước hết vì nợ nần và
vì những mất cân đối lớn. Chưa nói đến những diễn biến đột xuất từ các
vấn đề an ninh quốc phòng (ví dụ: Biển Đông)[4],
các vấn đề từ thiên tai, dịch bệnh nếu xảy ra... Đây là sự thật nghiêm
khắc, cần nói rõ cho cả nước biết, và cả nước – trước hết là ĐCSVN –
phải thẳng thắn đối mặt.
Cái khó là cả 4 vấn đề nêu trên đều rất nóng, luôn luôn đẻ ra nhưng
hệ quả khó trong quá trình xử lý. Ví dụ cơ cấu lại nền kinh tế, chắc
chắn phải loại bỏ một số sản phẩm (cũng có nghĩa là phải đóng cửa một số
loại doanh nghiệp nào đó, giữa lúc từ vài năm gần đây đã có tới trên
200.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đóng cửa); trong khi đó vô cùng
thiếu mọi loại nguồn lực cho phát triển các sản phẩm công nghiệp phụ trợ
mà nền công nghiệp hiện có đòi hỏi. Việc cải cách các doanh nghiệp quốc
doanh – trước hết là các tập đoàn kinh tế nhà nước – cũng đặt ra những
khó khăn như vậy: thất nghiệp tăng, doanh số giảm, nhà nước mất thuế...
Nông nghiệp đang đặt ra nhiều bài toán rất khó và nhạy cảm, với khoảng
trên 50% lao động cả nước làm nông nghiệp, với bình quân ruộng đất canh
tác 0,3 ha/1 lao động, luật đất đai và thể chế chính trị hiện tại hoàn
toàn bất cập cho việc đi lên một nền nông nghiệp của một quốc gia công
nghiệp... Cải cách thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng cũng luôn
luôn đặt ra nhiều vấn đề rất nhạy cảm. Lấy tiền ở đâu tăng cường tiềm
lực quốc phòng đang vô cùng bức thiết lúc này? Đời sống những người làm
công ăn lương, của các bộ phận dân cư nghèo ở nông thôn và thành thị, ở
các vùng sâu vùng xa… đang vô cùng nhức nhối… Công ăn việc làm của những
người đến tuổi lao động? Hàng chục vạn lao động đang đi làm thuê ở nước
ngoài, hàng vạn phụ nữ phải đi lấy chồng nước ngoài vì nghèo đói!.. Có
thể nói, đất nước có gì có thể bán được hầu như đã bán hết rồi, từ tài
nguyên, đến môi trường, đất đai, lao động rẻ, vị trí địa lý… Song nghèo
hèn và bế tắc vẫn hoàn nghèo hèn và bế tắc… Hình như từ lâu đã bắt đầu
bán cả linh hồn nữa, vì đang cam chịu số phận bị đè nén, èo uột, leo dây
và lệ thuộc… 40 năm độc lập rồi vẫn chưa cai sữa được ODA
và các thứ đi xin khác! Không biết niềm tự hào dân tộc còn lại là
bao!?..… Chưa nói đến thực tế đất nước đang có nhiều vấn đề nóng, rất
nóng khác, trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống: giáo dục, y tế,
giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, tệ nạn tham nhũng, chênh
lệch giầu nghèo và bất công lớn quá, sự tha hoá trong xã hội từ những
nguyên nhân kinh tế… Một sản phẩm mới ra đời trong quá trình đổi mới cơ
cấu kinh tế cũng đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định mới định
hình được… Một ngành kinh tế mới càng khó hơn, trong khi nguồn nhân lực
và thể chế chính trị gần như bất cập, rồi lại còn phải chuyển toàn bộ
nền kinh tế đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới như thế nào
đây?!.. Còn làm tiếp như hiện nay thì đi vào ngõ cụt!.. Và sự thật là bộ
não lãnh đạo của đảng với cái “think tank” rất đồ sộ đang có trong tay
lúc này vẫn không sao mách bảo được cho đất nước nên làm sản phẩm gì,
làm như thế nào, rồi chuyển đổi cả nền kinh tế đất nước sang thời kỳ
phát triển mới ra sao, cái định hướng xã hội chủ nghĩa không giúp được
những việc cam go này… Vân vân… Thực tế của bức tranh kinh tế đầy thách
thức này là sản phẩm kết tụ lại của cả một quá trình chế độ chính trị do
ĐCSVN nắm quyền điều hành toàn diện và tuyệt đối dẫn dắt đất nước theo
con đường “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” từ 40 năm nay. Thực
tế của bức tranh kinh tế này không phải là một sản phẩm nhất thời hoặc
của riêng một người hay một nhóm người nào, cũng không phải là sản phẩm
của một vài khoá nhiệm kỳ đại hội nào, mà là sản phẩm của ĐCSVN nắm
quyền cai trị đất nước trong 40 năm đầu tiên độc lập thống nhất. Xin
nhắc lại ở đây để không bao giờ quên trong khi so sánh và đánh giá chính
đất nước mình 40 năm qua: Chiến tranh Triều Tiên kết thúc 1953, Hàn
Quốc bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá vào khoảng năm 1960, với GDP p.
c. lúc ấy là 81 USD; năm 1990 trở thành NIC (nước mới công nghiệp hoá).
Từ minh hoạ đôi điều nói trên để đi đến kết luận dứt khoát: Nguy cơ
bất cập của hệ thống chính trị nói chung và của thể chế kinh tế hiện
hành nói triêng trước những vấn đề kinh tế phải giải quyết trong những
năm của khoá đại hội XII tới rất lớn. Mọi thứ kinh tế bánh vẽ để trấn
an, hoặc sự kiên định duy ý chí định hướng xã hội chủ nghĩa để bảo vệ hệ
thống chính trị toàn trị như đang tồn tại sẽ chỉ đem thêm thảm hoạ mới
cho nhân dân và giúp Trung Quốc bá quyền xiết chặt hơn nữa cái tròng lệ
thuộc trên cổ đất nước ta mà thôi. Tất cả càng nói lên tính quyết liệt
của một thời kỳ cải cách đang đặt ra phía trước cho đất nước, có lẽ
quyết liệt hơn và phức tạp hơn rất nhiều và cũng nhạy cảm hơn rất nhiều
so với lúc phải tiến hành đổi mới thời kỳ 1986, vì tình hình khu vực và
quốc tế ngày nay hoàn toàn khác, sự lệ thuộc của đất nước lại quá nguy
hiểm…
Thấy và nghĩ gì nói vậy, còn phiến diện lắm, cho nên ngoài việc nêu
lên những nhận xét trên của cá nhân, tôi xin phép không bàn về các giải
pháp, xin để cho các chuyên gia kinh tế làm việc này tốt hơn. Trong bài
này, tôi xin gửi gắm nỗi mong mỏi của mình là đảng – trước hết là Bộ
Chính trị và Tổng bí thư – phải có ý chí tiến hành tổng kết trung thực
tình hình kinh tế đất nước; tổng kết được rồi thì phải nói thực với toàn
đảng và với cả nước, để chắt lọc mọi trí tuệ, mọi nỗ lực, đưa kinh tế
nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng cơ cấu trầm trọng hiện nay. Thiết
nghĩ đất nước cần có một chiến lược kinh tế, sao cho đến năm 2020
khắc phục xong khủng hoảng cơ cấu kinh tế hiện nay, phát triển được
những điều kiện kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần thiết cho bước
phát triển mới, xây dựng được nguồn nhân lực và thể chế kinh tế với chất
lượng mới; trong những năm tới này đất nước cũng phải tích luỹ được lực
mới, để từ năm 2020 có thể bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế hiện
đại hoá đúng với nghĩa phát triển là động lực bền vững của tăng trưởng
kinh tế. Đặt vấn đề như vậy chất lượng, chứ không phải số lượng, của
tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu quyết định – phục vụ nhiệm vụ trung
tâm là phát huy yếu tố con người làm nên sức mạnh quốc gia. Nếu
thế cũng phải cất đi cái khẩu hiệu bánh vẽ “đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”, càng không thể
trút hết mọi tội lỗi lên cái lá diêu bông: Nguyên nhân của mọi nguyên
nhân của tình trạng kinh tế đất nước hiện nay là thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa không theo kịp công cuộc đổi mới… -
mà lẽ ra phải quyết định vứt bỏ cái lá diêu bông!
Chỉ có một lối ra khỏi tình hình nguy hiểm hiện nay để phát triển
là: Trí tuệ, dân chủ và ý chí cứu nước phải là những động lực chính trị
của sự nghiệp phát triển kinh tế trong những năm tới, bắt đầu từ việc
đại hội XII quyết định tổ chức lại ĐCSVN để phấn đấu trở thành đảng của
dân tộc, dấy lên sự tham gia của toàn dân tộc chuyển đất nước đi vào
thời kỳ phát triển mới năng động và bền vững./.