Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Tường thuật hội thảo "Quyền sống trong pháp luật quốc tế và Việt Nam"

Athena, cộng tác viên Dân Luận

hoithao_tuhinh.png
Ngày 22/9 tại phòng dạ hôi Thăng Long, khách sạn Melia Hà Nội đã diễn ra hội thảo “Quyền sống trong pháp luật quốc tế và Việt Nam” do Viện Chính sách công và Pháp luật kết hợp với Trung tâm Nhân quyền Na Uy – Đại học Oslo tổ chức. Tham dự hội thảo có một số khách mời từ trường đại học Oslo, đại học Oxford (Anh), đại học Nottingham (Anh), đại sứ Na Uy tại Việt Nam… Nội dung buổi thảo luận chủ yếu xoay quanh việc xóa bỏ án tử hình cho tất cả các loại tội phạm.
Trước hết, thuật ngữ “hình phạt tử hình” trong tiến Anh có nghĩa là “capital punishment” có nguồn gốc từ tiếng Latin là “capitalis”, có gốc từ là “caput”, nghĩa là “cái đầu” với hàm ý rằng đầu là bộ phận gắn liền với sự sống, hình phạt làm mất đầu có nghĩa là tước bỏ sinh mạng của một người. Trong từ gốc Hán – Việt “tử hình” có nghĩa là hình phạt buộc người ta phải chết. Xét trên phương diện pháp lý, có thể hiểu hình phạt tử hình là việc tước bỏ tính mạng của con người theo bản án được tuyên bởi một Tòa án được lập ra một cách hợp pháp, nhằm trừng phạt người nào đó vì đã phạm phải tội ác đặc biệt nghiêm trọng (khoa Luật – đại học Quốc gia Hà Nội, Những điều cần biết về hình phạt tử hình, NXB Lao động – Xã hội, 2010).

Hiện nay, tại Việt Nam án tử hình vẫn được áp dụng nhiều nhất cho tội danh giết người và buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên có thực sự hình phạt tử hình có tác dụng trong việc trừng trị, đem lại công lý và răn đe người khác hay không? Liệu án tử hình có vi phạm quyền sống được ghi nhận trong Luật quốc tế và nó có phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại văn minh?
Mở đầu hội thảo giáo sư – tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc (đến từ Viện Chính sách công và Pháp luật) đã dẫn lại lời nói rằng quyền sống (the right to life) đã được khẳng định trong các văn bản pháp luật nổi tiếng như Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Pháp… Quyền sống là quyền cơ bản, được phản ánh nhiều trong giáo lý Công giáo và lời răn dạy chúng sinh từ giáo lý nhà Phật. Quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân là những quyền tối ưu, luôn gắn bó với nhau và phải được pháp luật bảo vệ.
Quyền sống trong pháp luật Việt Nam cũng được khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và chỉ đến năm 2013 thì hiến pháp mới ban hành ghi rõ ràng: không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Hiện tại, bộ Luật hình sự hiện hành ở Việt Nam có 22/272 tội danh có quy định hình phạt tử hình, chiếm tỉ lệ khoảng 8%.
Giáo sư Roger Hood đến từ đại học Oxford, Anh cũng trình bày quan điểm xóa bỏ hình phạt tử hình là “một yêu cầu” cấp thiết về nhân quyền. Ông Hood cho rằng trong khoản 1, điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) có nêu: “Mỗi người sinh ra đều có quyền sống. Quyền này phải được bảo vệ bởi pháp luật. Không ai có thể bị tước đoạt mạng sống một cách tùy tiện.
Hiện nay trên thế giới các quốc gia đang có xu hướng đình chỉ, hoãn và bãi bỏ hoàn toàn việc thực thi án tử hình. Nếu như vào năm 1998 có tới 37 quốc gia thi hành và 78 nước áp dụng ít nhất một bản án tử hình thì vào năm 2003, chỉ còn 22 trong tổng số 57 quốc gia áp dụng một bản án tử hình. 99 quốc gia độc lập trên thế giới đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt này.
Đặc biệt, tại Ấn Độ mức phạt thông thường dành cho tội danh giết người là tù chung thân và án tử hình chỉ dành cho các vụ giết người “đặc biệt hiếm gặp” và “đặc biệt nghiêm trọng”. Hình phạt này chỉ áp dụng cho 0.5% số người bị kết tội và chỉ có duy nhất hai bản án tử hình cho tội danh khủng bố kể từ năm 2004.
Riêng ở Mỹ số lượng các bản án tử hình đang có xu hướng giảm và phân bố không đồng đều về tần suất áp dụng. Mới đây 6 tiểu bang đã xóa bỏ hình phạt tử hình và các tiểu bang khác cũng đang đi theo phong trào này.
Ông Roger cho rằng sự thay đổi này là do một “động lực mới” (new dynamic), thuyết phục các quốc gia vẫn còn duy trì án tử hình rằng việc áp dụng biện pháp trừng phạt nặng nề này là vi phạm các quyền của con người được cả thế giới công nhận.
Giáo sư Roger Hood cũng gợi ý rằng đối với các quốc gia còn đang lúng túng trong việc nên giữ hay bỏ án tử hình thì chính phủ nên lắng nghe dư luận xã hội và tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý.
Tiến sĩ Lill Scherdin thuộc đại học Oslo, Na Uy cũng bày tỏ “hình phạt án tử hình phải chăng là sự mạo hiểm với công lý bền vững?”. Nó không chỉ gián tiếp xâm phạm quyền được sống của con người mà còn gây ra những hậu quả và hệ lụy không mong muốn với những người có liên quan, đặc biệt là các nạn nhân và thành viên trong gia đình của tử tù. Ngay cả với những người trực tiếp nhận lệnh thi hành án, họ cũng bị stress và ám ảnh trong thời gian dài. Đó là điều không ai mong muốn khi muốn thực thi công lý nhưng không ngờ rằng việc này lại gây ra những hậu quả nặng nề.
Chưa kể không ai có thể chắc chắn rằng các bản án đều được thực thi đúng luật. Thực tế cho thấy đã có rất nhiều án oan, chưa kể những người phạm tội thường là những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội.
Hơn nữa, không ai có thể chắc chắn rằng tỉ lệ tội phạm sẽ giảm xuống nếu các nước tiếp tục duy trì án tử hình. Trong thực tế, trước khi xóa bỏ án tử hình tại Canada, tỉ lệ các vụ giết người có chiều hướng tăng lên. Nhưng sau 40 năm bãi bỏ hình phạt này, con số đó giảm xuống chỉ còn 44% so với trước đó.
Tương tự, khi so sánh các quốc gia có chung đặc điểm nhân khẩu học và kinh tế xã hội đã cho thấy rằng tại những nước áp dụng hình phạt tử hình, số lượng các vụ giết người giảm đi không đáng kể. Nghiên cứu ở Singapore và Hong Kong đã chỉ ra rằng trong cùng một giai đoạn, tỉ lệ các vụ giết người đã dần giảm mạnh ở hai quốc gia này, mặc dù án tử hình được thi hành ở Singapore và không được áp dụng tại Hong Kong.
Tất nhiên sẽ có nhiều nước cho rằng án tử hình phản đối với họ là cần thiết để răn đe người dân, cũng như phản ánh một phần văn hóa, ví dụ như Trung Quốc với quan điểm “lấy mạng đền mạng”. Tuy nhiên giáo sư Borge Bakken (đại học Oslo) đã phản bác lại rằng lập luận về văn hóa không còn phù hợp cho việc ủng hộ án tử hình. Bên cạnh đó quan điểm trên mang hơi hướm trả thù hơn là mong muốn thực thi công lý. Chính vì vậy, tâm lý trả thù này không những không ổn định được trật tự an ninh mà còn khiến xã hội trở nên tàn bạo hơn.
Tại Na Uy, nơi đã bãi bỏ hoàn toàn án tử hình và chung thân cho tất cả các tội danh từ hàng chục năm nay, sau khi sát thủ Anders Behring Breivik xả súng làm 77 người thiệt mạng thì ý kiến của công chúng vẫn không hề thay đổi đối với việc bỏ hình phạt tử hình (chỉ có 8% người dân đồng ý với việc thiết lập lại hình phạt này).
Chia sẻ về các mô hình và hình phạt thay thế cho án tử hình, giáo sư Jane Dullum trình bày rằng ở Na Uy thường áp dụng các biện pháp giam giữ phòng ngừa (preventive detention). Với các biện pháp đặc biệt này, khái niệm “sửa chữa” và “điều trị” đóng vai trò trung tâm. Các biện pháp này kéo dài vô thời hạn, nếu cần thiết sẽ kéo dài cho đến khi người phạm tội tái hòa nhập với xã hội mới dừng lại. Người trẻ được chữa trị qua trường lớp còn người lớn tuổi hơn thì lao động. Mục đích chính ban đầu của việc giám sát phòng ngừa là nhằm bảo vệ xã hội khỏi những tội phạm bất thường. Mặc dù ban đầu biện pháp lại vấp phải rất nhiều chỉ trích vì gây ra những phiền phức với xã hội và tạo nên các vấn đề pháp quyền quan trọng nhưng về sau các biện pháp phòng ngừa mới đặc biệt đã được áp dụng trở lại cho các đối tượng nguy hiểm.
Đối với riêng tình hình Việt Nam, ông Nguyễn Văn Hoàn, Vụ phó Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư Pháp) đã trình bày rằng từ nay đến hết năm 2015 sẽ trình Quốc hội xem xét bỏ án tử hình đối với các tội danh mà hiện nay vẫn được duy trì.
borge_bakken.png
Giáo sư Borge Bakken trình bày về thái độ của công chúng đối với hình phạt tử hình
khach_moi_btc.jpg
Khách mời, đại biểu và BTC buổi hội thảo

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"