Ca Dao - Lao Động Việt
Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai... những cái tên xa lạ dần dần đã trở thành
quen thuộc trong các hang cùng, ngõ hẻm, trên các ruộng đồng, làng núi
xa xôi. Và những cô bé, những trai làng trẻ tuổi đã tưởng tượng, đã mơ
mộng đến một vùng đất hứa. Vùng đất mà ta có thể kiếm ra tiền không mấy
cực nhọc, vùng đất sẽ đưa chị, đưa em, đưa cha đưa mẹ ra khỏi cảnh nghèo
đói triền miên ở làng mạc xác xơ.
Thế rồi, lần lượt người ta bỏ đất ra đi. Đi với một món nợ kếch xù
trên vai, món nợ mà nếu còn ở Việt Nam, chắc không bao giờ người ta dám
mượn. Mượn nợ để có ngày thoát nợ, họ nghĩ như thế! Anh đi vào miền Nam
kiếm ăn, chị tham gia chương trình xuất khẩu lao động để xóa đói giảm
nghèo của nhà nước... Ngôi làng bỗng chốc trở thành hoang vắng, chỉ còn
ông bà già và trẻ em ở lại giữ gìn mảnh ruộng đìu hiu.
Chỉ hơn 1 giờ bay, một trong những thiên đường mơ ước đó đã hiện ra
trước mắt: Mã Lai!!!. Cũng nắng miền nhiệt đới, cũng hàng dừa, cũng lũy
tre, cũng biển mặn như quê hương... và một tương lai đầy hứa hẹn! Sau
chuyến bay đầu tiên trong đời, những gương mặt mệt mỏi nhưng hân hoan
nghĩ đến ngày mai, đến những cổ máy hiện đại mà nay mai đây mình sẽ là
người điều khiển. Được ra nước ngoài đã là một sự kiện lớn trong đời,
lại còn kiếm được nhiều tiền cho thằng cu, cái bé, xây lại ngôi nhà, bốc
lại nắm mộ. Chỉ nghĩ tới là lòng đã lâng lâng...
Cái lạnh của máy điều hòa trong phi trường KLIA cũng không lạnh bằng
cái lạnh trong lòng của họ sau khi ngồi hơn 3 tiếng đồng hồ trong phi
trường mà không thấy một ai ra đón. Những gương mặt hân hoan đã biến
sang ngỡ ngàng và chuyển nhanh thành sợ hãi. Họ như những con thú xa
bầy, đang bơ vơ trước một cánh rừng xa lạ. Họ bám chặt lấy hành lý và
bám chặt lấy nhau như tìm chút nương tựa nơi kẻ cùng cảnh ngộ. Trong một
thoáng, họ cảm thấy hối hận đã đến đây và sợ hãi nghĩ đến món nợ to còn
đợi ở quê nhà...
Sau những giờ phút chờ đợi dài đằng đẵng, thế rồi cũng có người đến
đón họ. Không phải là chị Hai, anh Ba nói cùng ngôn ngữ. Mà là những
khuôn mặt xa lạ, tiếng nói cũng xa lạ. Họ không hiểu gì hết, chỉ biết
răm rắp đi theo. Đi đâu? không biết! đủ xa để họ có thể ngắm một phần xứ
sở mà họ sẽ phải làm quen trong 3 năm sắp tới.
Nhóm của họ bị chia ra thành nhiều mảnh, thôi thì phận ai nấy lo.
Vẫn là cái ngôn ngữ xa lạ ấy, Họ bảo ký giấy, ừ thì ký, họ bảo đưa hộ
chiếu cho họ giữ, ừ thì đưa. Hỏi làm gì, mà biết làm thế nào để mà hỏi.
Cái sợ nó đã ngấm vào xương tủy rồi. Từ nhỏ đến lớn, chỉ học mỗi cái
vâng lời; Vâng lời là yên chuyện. Vã lại, hỏi han lôi thôi, họ đuổi về
nước thì khốn!
Rồi mọi chuyện cũng đâu vào đấy, những bước bỡ ngỡ lúc đầu cũng qua.
Ở quê nhà, ngủ đất đã quen, sang đây chủ cho 8 người ngủ trong 1
container, mỗi người được 1 ngăn khoảng 1 mét ngang 2 mét dài đã là hạnh
phúc. Ngày làm việc 12- 14 tiếng, khuya về lọc cọc xách nồi nấu ăn, hôm
nào mệt quá thì ngủ luôn đỡ tốn cơm, sáng sớm hôm sau đi làm tiếp. Một
tuần làm 6-7 ngày. Chẳng cần biết mặt trời Mã Lai tròn hay méo. Bệnh ư?
cứ nghỉ, họ chỉ trừ lương thôi, trừ lương có nghĩa là kéo dài nợ, thế
thì đi làm vậy. Nó mắng chửi ư? cứ giả vờ điếc, gục mặt xuống tiếp tục
làm như con đà điểu chui đầu vào cát. Ức quá, đình công ư, họ kêu cảnh
sát Mã Lai đến bắt và trừ lương. Tìm công ty môi giới để than phiền ư?
môi giới đã biến mất như tuyết dưới mặt trời nhiệt đới. Thôi thì tiếp
tục đi làm mặc mọi bất công, khốn khó. Ngày lại qua ngày. Cuộc đời công
nhân xuất khẩu lao động quả là thần tiên.
Đời công nhân trên đất khách buồn nhiều hơn vui. Cái buồn còn có thể
phôi pha, nhưng có nhiều nỗi bất hạnh đã ghi lại những vết thương không
thể nào lành bằng cả nghĩa bóng lần nghĩa đen.
Trong những ngày lang thang trên đất Mã, tôi đã gặp Trường, một
trong những công nhân có số phận không may, với Trường là tuyệt cùng bất
hạnh. Những vết thẹo kinh khiếp trên người Trường ám ảnh tôi trên suốt
chuyến trở về. Câu chuyện thương tâm bắt đầu vào 1 tối giao thừa:
Tết Nguyên Đán năm 2010, Tại Melacca, Trường và các bạn lại ăn thêm 1
cái Tết xa nhà. Đêm giao thừa, trong container nóng bức, các anh em bày
biện bánh kẹo, hạt dưa ra ăn uống. Cũng có vài bạn trổ tài nấu thịt
đông, tuy không đúng cách nhưng cũng tạm để có 1 món gì đó gọi là hương
vị quê hương, hưởng ké tiếng pháo từ xa vọng về để thêm nỗi nhớ gia
đình. Rồi cũng xong 1 cái Tết xa quê.
Hơn 1 giờ khuya, khi mọi người chìm vào giấc ngủ, thì bỗng có tiếng
la lớn: "cháy, cháy...!!!" Trường chưa kịp hiểu ra chuyện gì đang xảy ra
thì đã nhìn thấy những tấm vải treo làm màn trong "phòng" đang phựt
cháy. Trường vội chạy ra ngoài. Ra đến ngoài thì đã thấy một số anh em
đang ở ngoài sân. Những container nơi hãng sử dụng làm chổ ở cho các
công nhân đang tiếp tục cháy dữ dội. Trường sực nhớ mình để quên cái
điện thoại di động trong "phòng". Điện thoại di động là vật bất ly thân
của bất cứ công nhân Việt Nam nào, nó là vật cần thiết hơn cả cơm ăn
nước uống, mất nó là đứt mọi sợi dây liên lạc, nó đáng giá bằng mấy
tháng lương của Trường. Không kịp suy nghĩ Trường lao trở lại chiếc
container đang ngùn ngụt lửa để cứu chiếc điện thoại. Khi vào đến bên
trong, Trường không biết nơi nào là chổ ở của mình, khắp nơi là lửa, tìm
không được, Trường chạy trở ra thì đã quá trễ, lửa đang bao vây tứ
phía, những thanh sắt ngã xuống chấm dứt lối thoát của Trường, chấm dứt
một đời trai.
Những ngày sau đó của Trường là những ngày chịu đựng sự đau đớn
khủng khiếp. Sau thời gian ở nhà thương, Trường được về nhà, em của
Trường đang làm ở Penang phải nghỉ việc để lo cho Trường. Cách vài ngày,
Trường phải vào nhà thương để "tắm". Một bên lỗ tai bị mất, miệng chưa
lành nên Trường không ăn uống và nói chuyện được, tay chân vẫn còn băng
kín. Chủ hãng của công ty chỉ trả 1 phần tiền nhà thương. Phần còn lại
họ cho Trường nợ. Ngoài ra còn tiền mua những loại băng đặc biệt để băng
những vết phỏng, tiền nhà thương, tiền thuốc men, tiền ăn uống cho 2
anh em…v.v Nhưng với tình trạng này, không mong gì Trường có thể hồi
phục lại để đi làm, còn mong gì trả nổi nợ???
Trong lúc khó khăn mới thấy tình đồng hương là quý: Anh em công nhân
đến thăm hỏi và chia sẻ. Các anh em trong Hội Thánh Tin Lành đến cầu
nguyện cho Trường. Ủy ban Bảo vệ Người Lao động Việt Nam cho người đến
tặng tiền, đóng góp phần nào vào chi phí nhà thương mà hiện giờ đã lên
đến hàng chục ngàn tiền Mã.
Cho đến ngày hôm nay, Trường và em của Trường cũng không dám cho gia
đình ở Việt Nam biết. Bà mẹ già bị bệnh cao huyết áp của Trường vẫn còn
nghĩ con mình đang lao động đâu đó ở Mã Lai.
Công nhân Trường hai tháng sau khi bị cháy
Sau hơn 6 tháng điều trị, vết phỏng đã lành nhưng hậu quả của nó để
lại thật rõ nét trên thân thể Trường: Một lỗ tai đã mất, những ngón tay
đã rút lại, thịt lồi lên như một tảng băng nổi, những vết thẹo kinh
khiếp trên lưng như mảnh ruộng nứt nẻ vào mùa khô.
Như chưa đủ khổ, cái nóng của Mã Lai đã tiếp tay hành hạ người công
nhân bạc phước này: do da đã thành thẹo, không có lỗ chân lông nên mồ
hôi không thể thoát ra ngoài, do đó cái nóng không giảm đi, nó tồn đọng
lại trong người, làm trong người Trường lúc nào cũng bị nóng bức khủng
khiếp, suốt ngày Trường phải ngồi trước chiếc quạt máy.
Trịnh Đăng Trường 8 tháng sau khi bị cháy (tháng 10 năm 2010)
Rời Việt Nam với ước vọng kiếm tiền giúp đỡ gia đình, nhưng than ôi,
ngọn lửa tàn ác đã đốt cháy mộng ước đơn giản của Trường, ngọn lửa đêm
giao thừa đã thiêu rụi tương lai của người thanh niên. Bây giờ, bên cạnh
nỗi đau thể xác, Trường chỉ quay quắt với ý nghĩ: làm sao để trả món nợ
khổng lồ? Nỗi đau của chính mình Trường có thể chịu đựng được, nhưng
liệu Mẹ mình có thể chịu đựng được không khi nghe tin con mình bị nạn?
Làm sao báo tin cho Mẹ? Làm sao có tiền trả nợ???
Những câu hỏi không có câu trả lời cho người thanh niên bất hạnh.