Michael Spence
Đỗ Kim Thêm dịch
Đỗ Kim Thêm dịch
Michael Spence
Tình trạng bất công về thu nhập và thịnh vượng ngày càng gia tăng
trong một vài nước trên thế giới là một xu hướng từ hơn ba thập niên qua
và trào lưu này sẽ còn kéo dài. Nhưng từ khi có cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 người ta chú ý thấy vấn đề này trầm trọng hơn: Khi tăng
trưởng chậm lại thì tình trạng bất công tăng hơn.
Lý thuyết “cổ điển“ về bất công cho là thông qua hệ thống thuế khóa
sự tái phân phối đã làm giảm những khích lệ năng động và tăng trưởng
kinh tế. Nhưng mối quan hệ giữa bất công và tăng trưởng rất phức tạp và
có nhiều chiều hướng hơn là chỉ có xung đột giữa các mục tiêu theo đuổi.
Vì có nhiều cách gây ảnh hưởng và cơ chế tạo phản ứng nên việc kết luận
chung quyết cho vấn đề càng khó khăn.
Thí dụ như hiện nay Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai nền kinh tế chính yếu
đang tăng trưởng nhanh nhất. Cả hai nước có cùng một tình trạng tương
tự là bất công trong thu nhập ngày càng cao và lan rộng hơn. Dù đứng
trước tình hình này người ta cũng không nên kết luận là tăng trưởng và
bất công không quan hệ gì nhau hoặc là có ảnh hưởng tích cực cho nhau.
Khi cho rằng tình trạng bất công là bất lợi cho tăng trưởng, lối tuyên
bố hàm hồ này không phản ảnh được thực tế.
Hơn thế, trên bình diện toàn cầu, tình trạng bất công suy giảm khi
các nước đang phát triển thịnh vượng - dù ngay trong trường hợp mà bất
công có tăng lên trong nội bộ của vài nước tiền tiến hay đang phát
triển. Suy nghĩ này có vẻ không hợp với trực giác, nhưng nó tạo nên ý
nghĩa. Xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế toàn cầu là tiến trình hội
nhập mà nó khởi diễn từ sau Đệ nhị Thế chiến. Một phần lớn trong 85% của
dân chúng trên thế giới sống tại các nước đang phát triển chứng kiến
được lần đầu tiên có được một sự tăng trưởng bền vững thực sự và nhanh
chóng. Khuynh hướng chung trên toàn cầu áp đảo được một khuynh hướng về
tình trạng bất công nội địa đang gia tăng.
Tuy nhiên, kinh nghiệm trong nhiều nước cho thấy là tình trạng bất
công cao độ ngày một lan rộng, có thể đem tác hại thực sự cho tăng
trưởng, mà đặc biệt nhất là vấn đề thiếu công bình trong các cơ hội. Một
lý do giải thích cho vấn đề này là vì tình trạng bất công làm giảm đi
sự đồng thuận trong xã hội và chính trị với các chiến lược và chính sách
hướng về tăng trưởng. Tình trạng này đưa tới việc ngưng trệ, xung đột
hoặc là ít có chính sách để chọn lựa. Bằng chứng hỗ trợ cho quan điểm
này là vì các tầng lớp bên dưới trong xã hội bị loại bỏ một cách có hệ
thống qua các quyết định chuyên quyền (thí dụ như dựa trên tiêu chuẩn
sắc tộc hay tôn giáo), việc này làm tác hại đặc biệt đến chiều hướng
công bình.
Năng động giữa hai thế hệ là một dấu hiệu quan trọng cho tình trạng
công bình trong cơ hội. Bất công về kết quả càng gia tăng không nhất
thiết dẫn đến mức suy giảm về năng động giữa hai thế hệ. Nếu có giảm hay
không, tình trạng này hoàn toàn tùy thuộc mức độ sữ dụng các phương
tiện quan trọng hỗ trợ cho công bình cơ hội có được phổ cập cho tất cả
mọi người hay không, mà chủ yếu là giáo dục và y tế. Thí dụ, nếu những
hệ thống giáo dục công cộng bắt đầu suy sụp, hệ thống này bị thay thế
bởi một hệ thống tư nhân, mà họ ở trên thượng tầng của tái phân phối lợi
tức. Việc thay thế này có hậu quả tác hại cho cho năng động giữa hai
thế hệ.
Giữa bất công và tăng trưởng cũng có những mối quan hệ khác. Tình
trạng bất công cao độ trong thu nhập và thịnh vượng (thí dụ như một phần
lớn tại Nam Mỹ và châu Phi) thường dẫn tới ảnh hưởng khác nhau trong
chính trị và chiều hướng này đang đẩy mạnh. Thay vì nỗ lực khởi động cho
những mô hình tăng trưởng dành cho mọi giới, chính giới cố bảo vệ của
cải và tìm cách giử ưu thế để thủ lợi cho giới nhà giàu. Nói chung, hành
vi này có nghĩa là các luồng mậu dịch và đầu tư không được mở rộng, bởi
vì nó sẽ gây có nhiều cạnh tranh ngoài luồng mà họ không muốn.
Tình trạng này cho thấy là tất cả các bất công về kết quả không nhất
thiết phải được xem xét một cách giống nhau. Bất công bắt nguồn từ việc
tìm kiếm đặc lợi để thâm nhập và khai thác các tài nguyên và cơ hội
trong thị trường, đây là vấn đề cực kỳ tác hại đến tình liên đới xã hội
và tình trạng ổn định - và chính vì thế mà nó làm hại đến các chính sách
v ề tăng trưởng. Trong một môi trường chung hướng về thành quả, kết quả
này thường được xem là lành mạnh khi dựa trên tinh thần sáng tạo, canh
tân hay những tài năng vượt bực và người ta tin là sẽ có ít hậu quả tác
hại.
Đó chính là một phần lý do tại sao chiến dịch bài trừ tham nhũng hiện
nay tại Trung Quốc là quá quan trong, đây là một thí dụ. Vấn đề không
phải là vì tình trạng bất công tương đối cao độ tại Trung Quốc, nhưng
xung đột xã hội là do những người trong nội bộ có ưu quyền thâm nhập thị
trường và trao đổi. Chính họ là những người đe doạ đến tính chính thống
và hiệu năng lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Tại Hoa Kỳ, có một vấn đề phức tạp mà chưa được sáng tỏ: Trong mức độ
nào mà sự gia tăng bất công về thu nhập trong hơn ba thập niên qua là
do thay đổi công nghệ và toàn cầu hoá (cả hai trào lưu này tạo thuận lợi
cho giới người có trình độ học vấn và kỹ năng cao) và trong chừng mực
nào bất công là do đặc quyền thâm nhập của chính giới trong tiến trình
tạo lập chính sách? Tuy nhiên, có hai lý do quan trọng để đặt ra vấn đề
này. Thứ nhất, các đối sách là khác biệt; thứ hai, những hiệu năng thuộc
về tình đoàn kết trong xã hội và sự khả tín về một kết ước xã hội cũng
khác biệt.
Tăng trưởng nhanh chóng là cần thiết. Trong một bối cảnh tăng trưởng
cao độ mà thu nhập tăng cho hầu hết tất cả mọi người, thì người ta sẽ
chấp nhận tình trạng bất công gia tăng tới một điểm mà quan trong nhất
là nếu bất công xãy ra trong một bối cảnh chủ yếu dựa tài năng và thành
quả. Trong một bối cảnh tăng trưởng yếu kém, (hay tệ hơn, không có tăng
trưởng), tình trạng bất công gia tăng nhanh chóng có nghĩa là nhiều
người không có thu nhập hay mất hẳn nền tảng sống theo ý nghĩa tương đối
hay tuyệt đối.
Hậu quả cho tình trạng bất công trong thu nhập ngày một tăng cao có
thể mở lối cho chính giới tới một con đường nguy hiểm: sử dụng nợ công,
đôi khi kết hợp với việc thổi phòng giá bong bóng trong tài sản, để duy
trì mức tiêu thụ. Họ lập luận là tình trạng này đã xãy ra vào những năm
1920, trước thời kỳ Đại Suy thoái; chắc chắn một điều, tình trạng đã xãy
ra tại Hoa Kỳ (và tại Tây Ban Nha và Vương Quốc Anh) trong thập niên
trước khủng hoảng 2008.
Nhìn tại châu Âu có một sự biến dạng của tình hình này là nhà nước
phải dùng tiền vay nợ để thoả mản nhu cầu và giải quyết vấn đề kiếm hụt
trong nhân dụng, những vấn đề này phát sinh do sức cầu hải ngoại và nội
địa của tư nhân suy yếu. Đó là một đối sách không phù hợp, bởi vì vấn đề
nhân dụng có quan hệ đến năng xuất và cạnh tranh, và tình trạng lại
trầm trọng hơn vì qua một loại tiền tệ chung.
Có những quan ngại tương tự về việc gia tăng nhanh chóng về tỷ lệ nợ
công tại Trung Quốc. Có lẽ nợ công giống như một đường lối phản ứng tối
thiểu liên hệ đến những hậu quả của tình trạng bất công hay tăng trưởng
chậm. Nhưng cũng có những phương hướng tốt hay xấu để xử lý với tình
trạng bất công đang gia tăng. Nợ công là một trong các phương sách tồi
tệ nhất.
Chúng ta đang ở đâu và làm gì? Theo tôi, những nhiệm vụ có tầm mức ưu
tiên đã rõ nét: Trong ngắn hạn, ưu tiên khẩn thiết nhất là trợ giúp lợi
tức cho người nghèo và thất nghiệp. Họ là nạn nhân trực tiếp của khủng
hoảng cũng như tệ trạng bất công và các vấn đề thuộc về cấu trúc. Việc
san bằng cần nhiều thời gian. Thứ hai, đặc biệt nhất là đối với tình
trạng bất công về thu nhập đang gia tăng, phổ cập việc sử dụng các dịch
vụ công cộng có phẩm chất cao là chủ yếu, nhất là trong lĩnh vực giáo
dục
Kết hợp mọi người để duy trì tình trạng đoàn kết xã hội và chính trị -
và nhờ thế tăng trưởng thật là cần thiết để làm giảm bớt hậu qủa của
tình trạng bất công đang tăng cao. Có nhiều đường lối làm nền kinh tế
tụt hậu hơn so với tiềm năng tăng trưởng, nhưng đầu tư không đúng mức
trong phạm vi công là một trong những nguyên nhân chính yếu và phổ biến
nhất.
Michael Spence đoạt giải Nobel Kinh tế,
Giáo sư Kinh Tế học tại NYU Stern School of Business. Ông cũng là tác
giả cuốn The Next Convergence - The Future of Economic Growth in
Multispeeed World.
---------------------------------------------------------------------
Nguyên tác: Good and Bad Inequality
---------------------------------------------------------------------
Nguyên tác: Good and Bad Inequality
Tựa đề bản dịch là của ngưòi dịch
Bài liên quan: Kim Them Do (2012), Idee der Gerechtigkeit und öffentlicher Vernunftgebrauch in einer demokratischen Gesellschaft, Rechtstheorie: Vol. 43, No. 2, pp. 241-249.
Bài liên quan: Kim Them Do (2012), Idee der Gerechtigkeit und öffentlicher Vernunftgebrauch in einer demokratischen Gesellschaft, Rechtstheorie: Vol. 43, No. 2, pp. 241-249.