Nguyễn Văn Tuấn
Tôi đọc 2 cuốn "Đèn cù" (của Trần Đĩnh) và " Những lời trăng trối "
(Trần Đức Thảo) một lúc. Vì đọc chưa xong nên chỉ có thể viết linh tinh
vài cảm nhận đầu tiên. Cả hai cuốn sách đều nói về chế độ cộng sản cùng
những con người trong chế độ đó, và qua đó chúng ta có thể giải thích
tại sao VN bị lệ thuộc vào Tàu suốt mấy mươi năm qua và tại sao VN vẫn
còn ở dưới đáy của bậc thang phát triển như hiện nay và có thể cả tương
lai.
Nhưng cách tiếp cận hay cấu trúc thì rất khác nhau giữa hai tác
phẩm. Đèn cù có vẻ tập trung vào những cá nhân gầy dựng chế độ và những
con người yểm trợ chế độ cộng sản ở VN. Tác giả được sống gần các nhân
vật đó một thời gian dài và có thể tiếp cận nhiều thông tin có thể nói
là thú vị. Chẳng hạn như tác giả được phân công viết một phần tiểu sử
ông Hồ và có dịp tiếp cận thông tin về cá nhân ông ở địa phương, và ông
cả Khiêm (anh ruột ông Hồ) cho biết ông Hồ sinh năm 1891 (chứ không phải
1890) nhưng tác giả không đào sâu phân tích chi tiết này. Tác giả cũng
không viết một cách rạch ròi về gia phả của ông Hồ. Thật ra, hầu như bất
cứ nhân vật nào, tác giả chỉ phác hoạ sơ sơ, bề mặt, chứ không hề có
đào sâu. Tuy nhiên, cảm nhận của tôi khi đọc những đoạn trong Đèn cù,
ông cụ Hồ là một người có vẻ thờ ơ và lạnh lùng với thân nhân, anh em
của ông. Ông không hề nhắc đến cha mẹ, anh chị em, và từ ngày ông đạt
được quyền lực tột đỉnh, cũng không về thăm và ở lại quê.
Lại có những đoạn mô tả các nhân vật chóp bu trong đảng làm cho độc
giả ngạc nhiên về trình độ văn hoá và nhận thức của họ. Chẳng hạn như
đoạn tác giả thuật lại chuyện Lê Duẩn hỏi Bs Phạm Ngọc Thạch rằng rau
muống luột và rau muống xào cái nào tốt hơn. Một đoạn khác, tác giả cho
chúng ta biết về quan điểm của Lê Duẩn liên quan đến in tiền. Chuyện kể
rằng ông Duẩn phàn nàn với Thành uỷ Hà Nội sao không bán giường tủ cho
công nhân viên và trừ lương hàng tháng, nhưng Thành uỷ nói không có
tiền, ông Duẩn bèn phán không có tiền thì in tiền. Ông giảng giải thêm:
"Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên
chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”
Ở một đoạn khác, tác giả thuật lại một chuyện khá bi hài về số phận
của ông Trần Đức Thảo (TĐT). Chuyện kể rằng Lê Duẩn mới viết xong một đề
cương về con người, và triệu tập TĐT đến để nghe và cho ý kiến. Khi ông
Duẩn đọc xong đề cương, ông TĐT im lặng không nói gì, nhưng khi được
đốc thúc thì ông Thảo nói ông chẳng hiểu gì cả. Thế là ông Duẩn đùng
đùng nổi giận "hai tay quàng ôm lấy ngực triết gia, xốc lên, dội xuống
mấy lần, rồi 'buông thịch' xuống một cái cho ông giáo sư rơi xuống ghế
ngồi."
Có lẽ điểm làm cho Đèn cù thu hút nhiều độc giả là ở cái tính cá
nhân, mà theo đó, tác giả mô tả có vẻ rất thật cá tính của từng người mà
ông có dịp tiếp xúc. Thỉnh thoảng trong sách tác giả còn chêm vào những
câu chuyện sex hay có màu sắc sex, rất dễ thu hút những người Việt tò
mò. Có những chi tiết buồn cười như tác giả chạy theo để dòm ông Hồ Chí
Minh… đi tiểu, và khi bị phát hiện, tác giả "liếc nhanh vào chỗ kia của
Cụ. Và chỉ thấy vùng ấy hơi tôi tối - nâu nâu hay hồng hồng? Ô, cũng như
mọi người?” Đọc đoạn đó chỉ làm cho chúng ta tức cười. Nhưng cũng có
vài đoạn làm cho người đọc phẫn nộ về sự dã man của quân du kích khi họ
dẫm đạp thi thể bà Nguyễn Thị Năm xuống áo quan vốn quá hẹp so với thân
thể của bà. Có lẽ chi tiết quan trọng nhất trong phần "Cải cách ruộng
đất" là ông Hồ từng viết bài dưới bút hiệu "CB" tố cáo bà Nguyễn Thị
Năm, và ông cũng bịt râu để xem đấu tố bà Năm. Chi tiết này cho thấy ông
Hồ hoàn toàn đứng đằng sau vụ đấu tố chứ không phải chỉ làm theo áp lực
của cố vấn Tàu như nhiều người nghĩ.
Qua cách mô tả rất sinh động của Trần Đĩnh, độc giả sẽ thấy được
những con người trong hệ thống đảng đã và đang được hệ thống tuyên
truyền đề cao (hay thậm chí thần thánh hoá) chỉ là những con người rất
bình thường và rất tầm thường. Họ không tỏ ra là những người minh triết
hay có những phát kiến gì đáng chú ý. Qua ngòi bút của tác giả, ai cũng
có thể thấy họ là những người cực kì giáo điều, tin tưởng vào Mao và
Stalin gần như tuyệt đối. Họ sẵn sàng chấp nhận "giáo lí" Mao – Stalin,
và có vẻ háo hức tình nguyện được làm "tín đồ" của tôn giáo đó. Họ muốn
đưa VN thành một thành viên trong cái thế giới đại đồng mà tôn giáo
Mao-Stalin vẽ ra. Còn sự tầm thường của họ sẽ làm cho nhiều người hâm mộ
cảm thấy thần tượng bị sụp đổ hay khó tin.
Khác với "Đèn cù" có xu hướng tập trung vào nhân vật trong hệ thống,
cuốn "Những lời trăng trối" thì tập trung vào phân tích nền móng của
chế độ và chủ thuyết cộng sản. Những lời trăng trối cũng có những đoạn
mô tả cá nhân, nhưng đó chỉ là một chất liệu để tác giả TĐT phân tích và
diễn giải thêm. Chẳng hạn như đoạn mô tả TĐT gặp ông Hồ trong An Toàn
Khu (ATK cũng được Trần Đĩnh nhắc đến) đầy kịch tính. Người ta phải đến
nói cho ông TĐT biết về qui tắc gặp lãnh tụ ra sao, như phải đứng cách
lãnh tụ 3 mét, không được giơ tay bắt tay trước mà phải chờ, không được
nói leo, phải xưng là "bác" và "cháu" chứ không được xưng "tôi", v.v.
Đến khi lãnh tụ đến nơi, cuộc diện kiến chỉ có 1-2 phút với chưa đầy 4
câu nói:
- À! Chào chú Thảo! Chú về đây đã được bao lâu rồi?
- Cháu xin kính cháo bác! Cháu về đây được 5 hôm rồi.
- À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đã đọc nhiều sách vở,
nhưng bây giờ về đây, thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không?
Thôi bác có hẹn nên phải đi kẻo trễ.
Thế là "bác đi". Nhưng cái câu "nhưng bây giờ về đây, thì chú phải
gắng mà học tập nhân dân, nghe không" được TĐT bỏ ra gần chục trang để
phân tích! Ông cảm thấy ông là một đối tượng có vấn đề, và vấn đề là
nhiễm tư tưởng phương Tây. Ông cảm thấy mình bị răn đe. Ông phân tích
rằng trong cái nhìn của đảng, nhân dân chính là đảng, thành ra học tập
nhân dân tức là học tập đảng! Ông TĐT lật đi lật lại cái câu "học tập
nhân dân" và lí giải trong bối cảnh của ông. Ông đi đến kết luận rằng
ông Hồ là một người rất phức tạp, hành tung bí mật (lúc thì đóng vai
tình báo, lúc là sĩ quan mang lon thiếu tá trong Bát bộ quân, lúc vận áo
cà sa, v.v.), thái độ khó hiểu, lời nói có khi đầy mâu thuẫn. Ông TĐT
kết luận rằng đó là một "con người có tung tích bí ẩn, có tâm thức đa
nghi, có phản xạ đa diện, nhạy bén, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ hội, dù là
mâu thuẫn với lí tưởng, với học thuyết, đối nghịch với lương tri, nhưng
điều cốt yếu là để đạt tới mục tiêu."
Trong Những lời trăng trối không có những câu chuyện cá nhân mang
tín vụn vặt như Đèn cù. Thay vào đó, Những lời trăng trối có những kiến
giải theo tôi là sâu sắc về chế độ và những phân tích tâm lí rất đáng
học hỏi. Những kiến giải đó chỉ để tác giả kết luận rằng "Chính ông Marx
đã sai", và "không một ai muốn phấn đấu để trở thành con người vô sản".
Tác giả lặp đi lặp lại 2 khẳng định đó như để nói rằng chủ thuyết cộng
sản (mà tác giả từng có thời ủng hộ) là sai, là nguyên do của những thất
bại và đau khổ cho một thế giới không nhỏ trong một thời gian dài. Ông
giải thích:
"Chính vì lâu đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra nhữg lãnh tụ đã
thành những ác quỉ tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến
sĩ cộng sản đã bị hi sinh một cách oan uổng và vô ích… và ở nước ta có
hàng triệu người bỏ làng mạc, bỏ mổ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm
1954, và rồi đã có hàng triệu người đã liều chết bỏ cửa bỏ nhà chạy ra
biển gây thảm cảnh "thuyền nhân" sau 1975… làm cả thế giới rơi lệ. Thành
phần dân chúng khốn khổ ấy, vì đã hiểu, đã nếm mùi lâu đài 'thế giới
đại đồng' của Marx, nên họ đã liều chết bỏ chạy! Là vì họ muốn đi tìm
nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự" (Trang 342).
Một đoạn khác, ông giải thích cái gọi là "quỉ" như sau:
"Quỉ ấy là thứ đầu óc đầy gian sảo, hung bạo của quyền lực. Quỉ ấy
là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín bạo lực và hận thù, là
những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con
người lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ
thứ quỉ kế, để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh
quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm, vì chúng làm khổ con người!
Xét như vậy là thấy rõ là quỉ nó vẫn ở với người, vẫn ở trong con người
lãnh đạo."
Còn rất nhiều đoạn như tôi vừa trích để cho thấy TĐT không quan tâm
nhiều đến cá nhân, mà chỉ kiến giải hành vi của cá nhân. Một số người
cho rằng một điểm yếu của Những lời trăng trối là do người khác ghi lại
lời nói của ông TĐT, và nghi ngờ chẳng biết ghi chép có chính xác. Đến
nay thì người ghi chép đã công bố cuốn băng có lời nói của ông TĐT:
Có thể nói rằng Những lời trăng trối có hàm lượng tri thức hơn hẳn
cuốn Đèn cù. Nhưng trong thực tế, tôi thấy hai cuốn này bổ sung cho
nhau. Một cuốn phân tích những sai lầm của chủ thuyết từ cơ bản, và một
cuốn thì mô tả sự ứng dụng của chủ thuyết đó bởi những con người cuồng
tín đầy ấp những bất cập và khiếm khuyết. Hệ quả là đất nước lâm vào
cảnh điêu tàn trong một thời gian dài, và cho đến ngày nay vẫn còn nằm
dưới đáy của bậc thang phát triển.