Hà Văn Thịnh
Nỗi đau từ 21 tỷ bị thả trôi sông, chìm dưới những lớp sóng
lạnh lẽo, thờ ơ là bài học – dẫu đau đớn cũng nên một lần nhìn thẳng:
Nghệ thuật đích thực không dung chứa sự nửa vời, cái một chiều; không
chấp nhận sự bất tài; không bao giờ tha thứ cho tất cả những ai cứ cho
rằng đã là Kỷ niệm thì cứ phải hô to, hò nhiều về ta thắng, địch thua.
Đọc tin mà xót, mà xa: Bộ phim kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên
Phủ và tôn vinh Tướng Giáp, đầu tư đến 21 tỷ đồng mà mỗi buổi chiếu chỉ
bán được có vài ba vé, đến nỗi phải “tắt đài, dẹp máy”, nhờ báo chí than
van, mong tìm đến sự “cảm thông” cho tiền dân của nước ngang nhiên bị
bỏ bụi, quăng bờ…
Trước hết, nếu mọi sự bao cấp (phim được làm bằng tiền thuế) đều
không dẫn tới những chế tài về chất lượng sản phẩm để kết cục chỉ là
kiểm điểm, rút kinh nghiệm thì chắc chắn tình trạng trên đã, đang và sẽ
còn tiếp tục dài dài.
Mô-típ của phim: Ba bạn trẻ đi phượt (thời hiện đại), gặp lại – hóa
thân thành những nhân vật anh hùng trong cuộc kháng chiến vĩ đại… Tất cả
những cách dàn dựng, “sáng tạo” này, đã có trong nhiều bộ phim của Mỹ
hoặc hợp tác Mỹ – Trung Quốc, như Khu mỏ chết chóc (Dead Mine); Truyền thuyết đánh cắp kho báu (Stealing
Legend)… Cách sao chép đó tưởng chừng như là đúng nhưng bởi vì nó
không… mới, không thể vượt qua người ta nên sự thờ ơ của khán giả là lẽ
đương nhiên.
Điều tiếp theo nhất thiết phải luận bàn cho đến nơi, đến chốn là số
tiền cả triệu USD sao lại có thể dễ chi, dễ tiêu, dễ lụi tàn đến thế
trong khi đất nước còn nghèo, nợ công đang ở thời khó đỡ, doanh nghiệp
đang khốn đốn, lao đao…? Phải chăng quy trình duyệt, cấp dự án phim đang
thực sự có vấn đề? Bởi, điều giản dị nhất về kinh tế là khi bỏ ra hàng
chục tỷ đồng để làm một cái gì đó, luôn phải cần đến – hội đủ những điều kiện nghiêm ngặt, cẩn trọng
về tài năng, kịch bản, đạo diễn, đội ngũ diễn viên… Thế nhưng, chẳng
thấy báo chí nói gì về những điều mà lẽ ra dư luận nhất thiết phải biết.
Đề tài lịch sử muốn thể hiện tốt trong nghệ thuật luôn phải tuân theo
những nguyên tắc như sự thật, tính sử thi, chức năng giáo dục, chức
năng phản biện… “Sống cùng lịch sử” dường như đã bỏ quên tất cả
các yếu tố trên. Chẳng hạn, đến bây giờ mà vẫn còn lấy biểu tượng lấy
thân mình lấp lỗ châu mai làm một trong những bản anh hùng ca chính thì
thật khó chấp nhận. Cho dù anh hùng Giót đã làm nên điều phi thường
trong chiến tranh nhưng, khoa học và thực nghiệm nói không với huyền
thoại đó.
Bao nhiêu con người mới lấp cho vừa cái lỗ châu mai? Lỡ có “lấp” xong
rồi, kẻ địch có thể chẳng nhọc nhằn gì mà chỉ cần gạt cái xác sang bên
rồi bắn tiếp? Tại sao đã có gan, có trí bò đến tận lỗ châu mai mà lại
quên đem theo trái lựu đạn vì chỉ cần một lần nổ thôi là lô cốt địch tắt
lửa lặng câm. Không ai chấp nhận nổi một người có đủ trí và dũng lại
phải hy sinh thân mình cho việc “lấp” (nếu như có thể) trong vài giây,
một ổ hỏa lực có ý nghĩa sống còn.
Lịch sử cũng như cuộc đời, nếu chỉ tồn tại bằng sự thêu dệt phi logic
(có thể chấp nhận sự cần thiết để tuyên truyền trong chiến tranh), luôn
luôn nhận được từ hiểu biết sự lạnh nhạt mặc nhiên. Cho dù nhân vật
Phan Đình Giót có thật đi nữa thì người xem cũng khó chấp nhận bởi những
lý do như đã nói ở trên.
Một sự thật nữa là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có trận đánh ta
khó thắng, những người làm phim có dám nhìn thẳng vào đó để KỂ những câu
chuyện xác thực bằng hình ảnh? Ví dụ, Đồi A1, ta nổ súng tấn công từ
13.3 nhưng mãi đến 6.5.1954 mới có thể chiếm được sau khi hy sinh rất
nhiều.
Sự thật đó chưa được nói rõ trong lịch sử nhưng những người làm phim phải dám biết, phải dám nói, phải dám đương đầu… Bởi nếu thiếu vắng những cái dám đó, phim không thể đủ hấp dẫn và làm xúc động những trái tim không thể đập dối, đập lầm…
Tất nhiên, đòi hỏi ở những người làm phim điều này là rất khó do ngay
chính các nhà sử học cũng chưa dám nói thật về những góc khuất, bao
giờ. Điều nghịch lý trong nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng là
chất anh hùng ca của chiến thắng vĩ đại chỉ có thể cuốn hút khán giả từ
những bi kịch của không ít nhầm lẫn, tổn thất. Chính những tổn thất và
sai lầm đó làm cho chiến thắng trở nên phi thường.
Ai đã từng đọc Chân dung tướng ngụy Sài Gòn, xuất bản sau
năm 1975 đều đau một nỗi đau chung: Kẻ địch kém cỏi, dốt nát, tệ hại như
thế, sao phải chiến đấu suốt mấy chục năm ròng?… Chỉ ca ngợi một chiều
theo cách hô khẩu hiệu từ đầu đến cuối thì làm sao có thể có khán giả
đến xem?
Nỗi đau từ 21 tỷ bị thả trôi sông, chìm dưới những lớp sóng lạnh lẽo,
thờ ơ là bài học – dẫu đau đớn cũng nên một lần nhìn thẳng: Nghệ thuật
đích thực không dung chứa sự nửa vời, cái một chiều; không chấp nhận sự
bất tài; không bao giờ tha thứ cho tất cả những ai cứ cho rằng đã là Kỷ
niệm thì cứ phải hô to, hò nhiều về ta thắng, địch thua.
Chợt nhớ đến đề thi văn mà nữ văn sĩ F. Sagan (tác giả của tiểu thuyết Buồn ơi, chào mi)
đã kể lại. Bà đã viết một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về bi kịch nhưng
thi trượt Chứng chỉ dự bị đại học Sorbonne, vì bà đã không phân biệt
nổi, không thể làm tốt cái đề thi chỉ có một câu hỏi ngắn: Bi kịch khác cuộc đời ở chỗ nào?