Nguyễn Văn Tuấn
Sự kiện mang tên “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ) xảy ra ở ngoài Bắc và
lúc tôi mới sinh, nên tôi cũng như phần lớn các bạn chỉ biết về sự kiện
qua báo chí, văn học, phim ảnh. Sự thật kinh hoàng và đau thương là hàng
vạn (?) ngườ bị giết oan và hàng trăm ngàn người bị kết án oan trái.
Bẵng đi một thời gian dài, bây giờ người ta đem ra triển lãm về sự kiện
kinh hoàng đó! Trong bài này, tôi chỉ muốn chia sẻ cùng các bạn vài suy
nghĩ cá nhân liên quan đến mục tiêu, con số tử vong, và những câu chuyện
tan thương trong vụ CCRĐ.
Cuộc CCRĐ không chỉ xảy ra trong một thời điểm ngắn, mà kéo dài từ
1953 đến 1956, tức khoảng 4 năm qua 5 giai đoạn. Những người chủ trương
CCRĐ làm có vẻ rất bài bản và có hệ thống. Khởi đầu là vận động và chuẩn
bị hậu thuẫn của quần chúng, sau đó là ra sắc lệnh, rồi làm thí điểm,
và vào cuộc ồ ạt. Có vài nguồn nói rằng lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh
không muốn làm CCRĐ, nhưng vì Tàu cộng gây áp lực lớn quá nên đành phải
làm. Tôi không biết luận điểm này khả tín ra sao, nhưng cảm thấy rất khó
chấp nhận, vì nó cho thấy rõ ràng là miền Bắc VN lúc đó chịu lệ thuộc
Tàu quá lớn.
Mục đích
CCRĐ để làm gì? Một văn bản có tên là “Luật cải cách ruộng đất” do Chủ tịch Quốc hội Hồ Chí Minh kí (1) ghi rõ:
“Điều 1. - Mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất là:
Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế
quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng
đất của giai cấp địa chủ,
Để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân,
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển,
Để cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến,
Để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phòng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc.”
Dĩ nhiên, đó là “bề nổi” của mục đích, còn “bề chìm” thì có lẽ hiểu
một cách khác. Có thể mục tiêu chính là xoá bỏ sự ảnh hưởng của giới
giàu có và có học ở nông thôn. Thời đó, đại đa số nông dân không biết
chữ, và giới có học thường là người nhà giàu, và những người này có thể
nói là “proxy” lãnh đạo ở nông thôn. Người cộng sản muốn độc quyền lãnh
đạo nên phải xoá bỏ thành phần giàu và có học này. Theo tôi nghĩ đó mới
là lí do chính họ phát động cuộc CCRĐ.
Một lí do quan trọng nữa theo tôi nghĩ là họ muốn làm cho nông dân
phải biết sợ sức mạnh của người cộng sản. Nên nhớ rằng phần lớn các cuộc
khởi nghĩa hay nổi dậy đều xuất phát từ nông dân. Nông dân tuy không có
học nhiều nhưng một khi họ đoàn kết lại thì trở thành một lực lượng rất
khó khống chế. Do đó, người cộng sản phải thị uy quyền lực của họ qua
CCRĐ. Rất có thể mục đích này giải thích tại sao họ xử bắn nạn nhân ngay
trước mặt công chúng và người thân của nạn nhân. Có thể lúc đó những
người hành xử như thế không thấy họ là dã man hay thú tính, mà họ thấy
họ đã thị uy để khuất phục đám đông.
Một lí do khác là hệ quả của hai lí do trên có thể là họ muốn xoá bỏ
nền tảng đạo lí vốn đã tồn tại qua hàng ngàn thế hệ của nông thôn VN.
Họ muốn thay vào đó cái nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa mà họ mới du
nhập từ Nga và Tàu vào. Đó chính là lí do tại sao rất nhiều di tích lịch
sử, đền đài, chùa chiềng bị đập phá một cách không thương tiếc. Họ muốn
đoạn tuyệt với lịch sử và văn hoá VN.
Một cách trớ trêu, tôi nghĩ người cộng sản đã đạt được cả 3 mục tiêu
chìm trên. Họ đã xoá sạch ảnh hưởng của giai cấp giàu và có học ở nông
thôn và biến họ thành những phế nhân của xã hội. Họ đã thành công làm
cho nông dân và cả xã hội nói chung phải sợ trước họng súng, đúng như
Mao từng nói “chính quyền sinh ra từ họng súng”. Và sau cùng họ
đã thành công một phần nào đó đoạn tuyệt với quá khứ và xoá bỏ ảnh hưởng
của tôn giáo. Nhưng thành công nào cũng đi kèm theo những hệ quả khôn
lường. Cái hệ quả lớn nhất, đau thương nhất, và kinh khủng nhất là giết
chết hàng vạn người vô tội.
Bao nhiêu người chết?
Hậu quả kinh khủng nhất của CCRĐ là cái chết. Không ai có một con số
thống kê chính xác về số người bị xử và số người bị giết, chỉ có ước
tính. Những ước tính từ các chuyên gia trong và ngoài nước chênh lệch
nhau rất lớn. Nhưng dù chênh lệch, họ đều nhất quán một điều là số người
bị giết cao hơn 15,000. Tính trung bình mỗi ngày có gần 20 người bị các
đội CCRĐ giết chết. Đó là một con số rất lớn, một vết thương dân tộc
mang tính lịch sử mà tất cả chúng ta đều không được quên.
Trước hết, chúng ta hãy thử đọc thống kê chính thức của Nhà nước. GS
Đặng Phong, một sử gia về kinh tế VN, đã dày công làm thống kê về CCRĐ
và trong một cuốn sách “Lịch sử kinh tế Việt Nam” ông đưa ra con số
người bị kết án oan trong thời kì CCRĐ là 172,008. Đó là những người bị
kết tội là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của giai cấp (2).
Nhưng chưa hết! Trong số 172,008 người bị kết án và một số bị giết
chết đó, sau khi tổng kết thì Nhà nước kết luận rằng có đến 123,266 bị
kết án oan. Nói cách khác, cứ 10 người bị kết án, thì có 7 người bị oan.
Thật ra, “oan” ở đây có nghĩa là theo quan điểm của họ (nhà cầm quyền)
chứ trong thực tế có lẽ 100% đều là oan.
Nhưng giả dụ như 7/10 là oan, thử hỏi trên thế giới này có nơi nào
mà án oan nhiều đến như thế. Điều này không ngạc nhiên, bởi vì những
người gọi là “chánh án” hay ngồi ghế xử tử hình người khác toàn là loại
“cóc nhái”. Sau đây là lời nói của một người từng chứng kiến CCRĐ: “Ôi!
Tôi còn nhớ như thế này, tôi chưa bao giờ thấy lịch sử con người lại
ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi “bí tất”, cóc
nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm
thẩm phán. Thậm chí ngồi trên toà đấu bố mình.” (3)
Các chuyên gia nghiên cứu ở nước ngoài cũng đưa ra những con số nạn
nhân bị giết chết trong CCRĐ. Các chuyên gia này dựa vào nguồn từ Việt
Nam và suy luận, và kết luận rằng khoảng 50,000 đến 172,000 người bị
giết chết (4-6) vì bị kết án là kẻ thù của nhân dân.
Theo wikipedia, một nguồn từ Bộ chính trị đảng CSVN thì chỉ tiêu tối
thiểu là giết 1/1000 người Việt (miền Bắc) trong giai đoạn “giảm tô”.
Con số này có nghĩa là tối thiểu 14,000 người bị giết trong thời giảm
tô. Dĩ nhiên, con số bị giết chết trong các đợt CCRĐ kế tiếp phải cao
hơn con số đó nhiều lần.
Một chuyên gia về đất đai của VN là Lâm Thanh Liêm (miền Nam) người
đã phỏng vấn nhiều cán bộ miền Bắc đã hồi chánh cũng đưa ra một ước tính
khác. Ông ước tính rằng số người bị giết dao động trong khoảng 120,000
đến 200,000. Con số này có vẻ phù hợp với số nhà và chòi của “địa chủ”
được giao cho những người nông dân (những ông chủ mới). Lúc đó, người ta
(ai đó?) đặt ra một chỉ tiêu là 5.68% dân số phải là “địa chủ”. Nói tóm
lại, các ước tính trên đây rất chênh lệch nhau, nhưng tất cả đều nhất
quán rằng có ít nhất 15,000 người bị giết trong thời kì CCRĐ.
Những câu chuyện thương tâm
Có rất nhiều câu chuyện đau thương về hậu quả của CCRĐ. Đã có nhiều
người viết thành sách, tiểu thuyết. Ngay cả một người sắc máu như Tố Hữu
mà còn phát biểu rằng “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi
thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là
trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”
Người bị xử bắn đầu tiên trong vụ CCRĐ là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là
một ân nhân lớn của các ông như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn
Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành
uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, v.v. Bà từng
đóng góp cho Cácn mạng Tháng 8 20,000 đồng bạc Đông Dương (tương đương
700 lượng vàng). Con trai của bà có người làm đến chức trung đoàn trưởng
trong quân đội Việt Minh.
Vậy mà khi CCRĐ xảy ra, người ta đem bà ra xử và bắn chết! Các ông
như Trường Chinh (lúc đó là trưởng ban CCRĐ) và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở
đâu mà không can thiệp? Họ trả nghĩa bà Năm như thế chăng? Thứ tình
nghĩa gì mà quái gở như thế? Trong cuốn “Trần Huy Liệu – Cõi đời”, tác
giả Trần Chiến kể lại buổi đấu tố bà Năm như sau:
“Hôm ấy là ngày 22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh cái
nắng nóng nhiều người đã lấy cành cây che đầu, nhưng vì làm như thế thì
người ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ tịch đoàn đã yêu cầu mọi người
vứt lá đi. Phiên tòa hôm ấy khoảng 1 vạn người. Cũng như ngày trước, Chủ
tịch đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch
liệt. Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công (2) cùng đầy tớ là
đội Hàm, Chính, Chiêu được Đội dân quân dẫn vào các bần cố nông đã bật
dậy hô đả đảo vang trời. Có người còn đòi “bọn địa chủ gian ác” phải
đứng lên cao và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả
đảo.
Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên “địa chủ ác ôn” và ngắc ngứ đọc
lý lịch, nhưng không nêu tội ác cụ thể. Cứ sau mỗi lần như vậy những
người tham dự phiên tòa lại hô vang 3 lần: “Đã đảo, đã đảo, đã đảo!”.
Đám đông đã tỏ ra hết sức phẩn nộ trước thái độ của đội Hàm. Đôi
mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách thức. Nhiều người đã hét lên yêu cầu
lính gác phiên tòa “tát cho nó nảy đom đóm mắt ra để nó cúi gằm mặt
xuống mà nhận tội”.Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ tịch đoàn tuyên bố đề
nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay
bắt quỳ, bò”.
…
Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có
nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên
là Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao
nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ
đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân
nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà
Năm ở đâu.
Còn một ông tên là Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ của ông ta
để cho ngựa của bà ăn và cướp cả giỏ củ mài làm cho cả nhà ông ta phải
nhịn đói.
Hài hước hơn cả là trường hợp của một chị có tên là Lý. Chị Lý tố
cáo rằng, chị ta là con nuôi của bà Năm, được bà Năm trang điểm cho để
định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận
tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị
bà Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Nội
dung tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta vừa nói vừa khóc nên không ai rõ
chị ta nói gì.”
Sau khi bà Năm bị tử hình, một bài báo xuất hiện trên tờ Nhân dân
có tựa đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả kí tên là C.B. Bút danh này
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng rất nhiều lần trong thời gian đó. Do
đó, người ta nghi ngờ rằng chính ông Hồ là tác giả bài viết mang tính
đấu tố này. Chỉ là nghi ngờ chứ chẳng ai biết rõ.
Đài RFA có hẳn một mục dành cho những câu chuyện mang tính cá nhân
về CCRĐ. Sau đây là vài câu chuyện thật mà đọc lên chúng ta thấy không
biết tại sao con người lúc đó quá tàn ác với nhau.
Về những người tố cáo, qua lời kể của Nhà văn Nguyễn Chí Thiện:
“Họ bị kích động nhiều, bị kích động hơn là bị ép buộc anh ạ.
Nhưng số người mà sau này họ hăng say lao theo thì đông, chứ còn số
người miễn cưỡng lên thì ít thôi. Nhưng phải nhớ một điều là từ đầu đã
có một sự cưỡng bức rồi. Những người hăng say thì không phải là tự họ họ
lên đâu, mà họ không lên cũng không được. Qua quá trình kể khổ rồi khơi
sâu lòng hận thù thì nhiều người trở thành hận thù thật. Họ lên họ làm
việc đó.
Chỉ riêng trong gia đình thôi thì là một sự miễn cưỡng rõ rệt anh
ạ. Thí dụ như con dâu mà lên tố bố chẳng hạn, tố là ông ấy hiếp mình
thế nọ thế kia thì ăn nói nó có vẻ gượng gạo, không có tinh thần hăng
say như những người khác.
Có một điều đặc biệt là, ông ta đã ngoài 60 rồi, mà ông ta vẫn cứ
phải xưng cháu hoặc xưng con với bất cứ một người nào lên đấu tố, dù
người lên đấu tố chỉ đáng tuổi con ông thôi. Thâm chí tôi còn nhớ một cô
con gái lên tố ông ta thì ông ta cũng phải xưng con với người con gái
đó - con gái mình đẻ ra đấy ạ.”
Còn người ngồi ghế xử án:
“Bây giờ nói đến tòa án nhân dân mà ngồi xử thì toàn là nông dân
thôi, toàn là nông dân họ sắp xếp lên ngồi thôi. Chị làm "chánh án", tôi
còn nhớ chị ấy còn mù chữ nữa anh ạ, không biết viết a,b,c thế mà lại
lên làm chánh án.
Sau một ngày đấu tố nhục nhã như thế rồi thì họ bắt đầu họ tuyên
án. Họ tuyên án với tất cả những tội ác mà địa chủ đã phạm phải, mà toàn
bộ là bịa đặt thôi. Người ta tuyên án ông ấy tử hình. Đặc biệt là trong
quá trình đấu tố thì ông địa chủ này không có quyền cãi mà chỉ có quyền
bất cứ ai đấu tố thế nào đều chỉ có quyền "nhận tội" - nhận tội lỗi của
mình chớ không hề có một lời cãi nào được phép cả.”
Họ làm gì với nạn nhân đã bi tử hình?
“Buổi hôm đó, tôi còn nhớ là sau khi đấu tố xong thì lập tức có 6
anh du kích. 6 anh du kích này đứng cách khoảng độ 2 mét... thế là bắn
chết ông ta ngay. Sau khi bắn chết xong thì chặt dây thừng - không phải
là cởi nữa mà là chặt dây thừng, lấy con dao chặt dây thừng ra và lôi
ông ta ra chỗ cái hố đó. Xin nhớ một điều, không có áo quan anh nhá. Thế
là họ vất tụt xuống hố đó là lấp đất ngay lập tức thôi. Lấp đất xong
thì đất ấy cũng không được đấp thành mộ mà đấp bằng như bình thường thôi
chớ không đấp gồ lên như một khối u như là một mộ phần anh ạ. Đấy là
điều mà tôi chứng kiến tận mắt.”
Ông Nguyễn Văn Thủ kể lại vụ xử cha mẹ của vợ nhà thơ Hữu Loan:
“Bà ấy lên, lật ngửa mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: con
Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép buộc tao, phải gả con gái cho con
mày…rồi bà ấy khóc hu hu lên…rồi xin đội cải cách cho đem con gái về…
rồi bà ấy bảo là mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ lià con…
Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà
tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy,
người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng
tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết
ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu… Đấu
tố bố mình, bắt phải ra nhìn…Còn những người khác bị tra tấn, bị chết
thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp…Cuối cùng thì
sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi !”
Đối xử với nạn nhân như là thú vật. Trung tá Trần Anh Kim kể:
“Toàn bộ những cái bố tôi kể thì tôi còn ghi được nguyên cuốn
băng. Cứ làm như thế, hàng ngày làm như thế, làm để bắt nhận là QDĐ. Bố
tôi không nhận QDĐ, bố tôi bảo rằng bố tôi chẳng biết QDĐ là ai cả, chỉ
biết đảng viên đảng CS thôi. Thế người ta không quy được cho bố tôi QDĐ
thì người ta lại đưa bố tôi lên địa chủ luôn.
Địa chủ ngày đó là địa chủ "phân" anh ạ. Thí dụ mỗi một thôn là
mấy địa chủ thì cứ thế người ta đưa lên thôi. Cuối cùng thì cũng bị tù
không án, hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi tù nhiều. Tức là tay thì
trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ
nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi.
Lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, khoảng 10 tuổi, tôi mang cơm cho bố tôi
thì khổ thế này: đầu tiên mang ra ngõ thì mình cũng chẳng biết gì cả,
lúc bắt bố tôi thì tôi biết nhưng bắt ông tôi thì tôi không biết. Lúc
bắt bố tôi thì tôi chỉ biết khóc thôi. Tôi thấy tự nhiên người ta đến
nhà mình, 5 người đến, người ta dằn bố mình ra người ta trói mang đi,
nói thằng này là QDĐ, trói mang đi thì mình chỉ biết khóc thôi. Không
biết làm gì cả.
Ra ngõ thì gặp đội, thế là nó quát ầm lên: "thằng này con nhà
QDĐ, cháu địa chủ, tại sao mày gặp chúng tao mày không chào, mày không
quì xuống". Lúc bấy giờ biết đâu được, chỉ khóc thôi. Tôi khóc và bắt
đầu quỳ xuống, nó bảo từ nay trở đi mày gặp chúng tao mày phải quỳ
xuống, mày lạy các ông đội, xin phép các ông đội, xin phép các ông cốt
cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi, thế thì chúng tao cho đi.
Thế thì cuối cùng từ đấy thì cứ quen như vậy. Cứ ra ngõ gặp người ta là
phải quỳ xuống, xong lại xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho
ông tôi, cho bố tôi. Gọi là cơm nhưng có cơm đâu, chủ yếu là khoai thôi.
Nắm cơm mang xuống thì thế này. Người ta dùng ngay cái trét xúc
cứt đấy ông ạ, xúc phân gà, nó xắn vào chén cơm. Tôi cũng chẳng biết gì
cả, tôi chỉ biết người ta làm như vậy thôi. Nhưng ông thôi thì rất hăng.
Ông tôi bảo tại sao lại phải làm như vậy thì nó bảo là phải kiểm tra
xem bọn địa chủ nó có tiếp tế cho nhau không, nó có thông tin cho nhau
không, chúng ta phải kiểm tra.
Có hôm thì họ làm như vậy, có hôm thì không có trét, nó rút ngay
cái cọc ở chuồng lợn bên cạnh con trâu, thế thì họ chọc vào cơm, chọc
luôn vào khoai, bảo chúng tao phải kiểm tra. Năm đó thì có gì đâu, có
cái gáo dừa thôi mà. Cái gáo dừa treo hai cái dây lủng là lủng lẳng đem
nước vô cho ông - nó đổ đi một nữa xong nó đái vào đấy. Tôi cũng chẳng
biết gì, chỉ biết như thế thôi.
Nhưng ông tôi quát rầm lên thì nó bảo rằng cho chúng mày uống để
mà sáng mắt ra, cho chúng mày hết tư tưởng bóc lột, hết tư tưởng ức hiếp
nhân dân. Nó cứ chửi ông tôi như thế - tôi cũng chỉ biết khóc, chẳng
biết làm thế nào cả. Mình chỉ mang đi cho ông, mang đến chỗ thì lại về
rồi.”
***
Những câu chuyện thương tâm về CCRĐ thì cả bộ sách viết cũng chưa
chắc đủ. Nhưng tôi có cảm giác là hình như vẫn chưa có những nghiên cứu
hàn lâm về CCRĐ và hậu quả của nó, một phần có lẽ do thiếu thông tin (vì
Nhà nước VN không cung cấp), một phần do bản chất “tế nhị” của vấn đề
nên các nhà nghiên cứu trong nước không muốn/dám động đến.
Với hàng trăm ngàn người chết mà cho đến nay chẳng ai đứng ra chịu
trách nhiệm về những tang thương xảy ra trong thời CCRĐ. Ngược lại,
người ta còn có vẻ tự hào triển lãm những thành quả của CCRĐ! Mà, cuộc
triển lãm cũng chỉ là những trưng bài mang tính một chiều, mà không dám
trưng bày những góc cạnh tối của sự kiện. Người ta chỉ tuyên bố theo
kiểu sáo ngữ như “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long
trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế
độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”, nhưng không dám nói
lên sự thật về hàng trăm ngàn cái chết oan. Thật tình mà nói, tôi không
rõ CCRĐ đã đem lại cuộc sống mới và giá trị mới gì, nhưng có lẽ đó là sự
thành công trong việc xoá bỏ giai cấp “trí hào” ở nông thôn và nền tảng
đạo lí của xã hội VN. Chúng ta đã thấy xoá bỏ giai cấp đó thì dần dần
hình thành một giai cấp thống trị mới xem ra còn khắc nghiệt hơn và hệ
thống hơn giai cấp trí hào cũ.
Cuộc CCRĐ còn làm đảo lộn luân thường đạo lí của xã hội VN. Có người
Việt bình thường nào có thể tưởng tượng nổi con đấu tố cha, con dâu tố
cha chồng, vợ đấu tố chồng, v.v. Tất cả đều chỉ là làm theo những vở
kịch đã được diễn tập, hoặc bị kích động. Đây phải nói là một đề tài
nghiên cứu tâm lí rất độc đáo. Một con người bình thường khi được trang
bị cho một thứ chủ thuyết nào đó họ sẽ trở thành những tên sát nhân nguy
hiểm. Đó là bằng chứng từ nghiên cứu vào thập niên 1950. Có lẽ những
người đứng đằng sau cuộc CCRĐ đã rành những chứng cứ đó nên họ áp dụng
rất thành thục, và hệ quả là một xã hội bị đảo lộn về tôn ti trật tự. Sự
đảo lộn vẫn còn để lại hệ quả cho đến ngày hôm nay.
Một trong những ông tổ cộng sản và cũng là tên đồ tể giết người không gớm tay là Josef Stalin từng nói rằng “một cái chết là một thảm trạng; hàng triệu cái chết là một con số thống kê”
(The death of one man is a tragedy; the death of millions is a
statistic). Câu nói lạnh lùng hàm ý rằng giết một người thì sẽ có người
quan tâm làm lớn chuyện vì họ động lòng, nhưng giết hàng triệu người thì
chẳng mấy ai quan tâm vì người ta sẽ mệt mỏi với sự thương tâm
(emotional fatigue) và nó chỉ là con số thống kê. Đối với nhà độc tài
như Stalin thì mạng sống con người chẳng có nghĩa lí gì vì nó như là một
con số thống kê.
Chúng ta thường hay kinh hãi trước những cái chết trong cuộc “cách
mạng văn hoá” ở Tàu với hàng chục triệu người bị giết oan. Nhưng trớ
trêu thay, ít người trong chúng ta kinh hãi trước 15000 người của mình
bị giết chết trong thời CCRĐ! Có người nghĩ rằng sự kiện CCRĐ là chuyện
quá khứ, đảng và Nhà nước đã chính thức xin lỗi, nhắc lại làm gì. Nhưng
tôi nghĩ suy nghĩ đó không đúng. Nhắc lại hay nghiên cứu về sự kiện
trong lịch sử không phải để trả thù ai, mà để học hỏi từ những bài học
quá khứ. Có triết gia từng nói và tôi đồng ý: Những kẻ nào không học từ lịch sử thì sẽ có ngày lặp lại những sai lầm của quá khứ. Do đó, phải học từ những sai lầm trong quá khứ để không vấp phải chúng một lần nữa.
----
(2) Chương III trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam của Đặng Phong.
(4) Bernard B. Fall (1967), The Two Vietnams: A Political and
Military Analysis (London: Pall Mall Press, 2nd rev. ed.), p. 156.
(5) Robert F. Turner (1975), Vietnamese Communism: Its Origins and Development (Hoover Institution Press), pp141-3, 155-7.
(6) The History of the Vietnamese Economy (2005), Vol. 2, edited by
Dang Phong of the Institute of Economy, Vietnamese Institute of Social
Sciences.
(7) Alec Holcombe, Politburo's Directive Issued on May 4, 1953, on
Some Special Issues regarding Mass Mobilization Journal of Vietnamese
Studies, Vol. 5, No. 2 (Summer 2010), pp. 243-247, quoting a translated
Politburo directive from May 4, 1953. This directive was published in
Complete Collection of Party Documents (Van Kien Dang Toan Tap), a 54
volume work authorized by the Vietnamese Communist Party.
(8) Lam Thanh Liem (1990), "Chinh sach cai cach ruong dat cua Ho Chi
Minh: sai lam hay toi ac?" in Jean-Francois Revel et al., Ho Chi Minh,
Nam A, pp. 179-214.