Nguyễn Văn Tuấn
Tôi nghĩ rất khó có một bức tranh chính xác về hiện trạng xã hội VN
qua nghiên cứu KHXH định lượng. Lí do đơn giản là vì sợ và tính dối
trá. Nỗi sợ làm cho người dân không dám nói lên sự thật, thậm chí sẵn
sàng nói ngược lại điều mình tin. Thói dối trá làm cho người ta sẵn sàng
vặn vẹo dữ liệu, báo cáo không thật, hay báo cáo có chọn lọc. Do đó,
các nghiên cứu KHXH định lượng (như chỉ số hạnh phúc chẳng hạn) do người
phương Tây thực hiện ở VN có thể chẳng có giá trị khoa học gì.
Thử bàn về nỗi sợ trước. Có lẽ do ảnh hưởng từ thời bao cấp và thể
chế police state, nên người dân rất miễn cưỡng nói thật. Trong cái nhìn
của họ [có thể sai], người đi thu thập dữ liệu là quan chức của Nhà
nước. Mà, quan chức thì – vẫn theo cái nhìn của người dân -- họ có cái
gì đó xa rời mình, cái gì đó bí ẩn, cái gì đó nguy hiểm. Đó là cái nhìn
“họ” và “ta”. Họ và ta là hai thế giới khác. Họ là kẻ thống trị. Ta là
kẻ bị trị. Đa số người dân sợ làm phật lòng kẻ thống trị. Ở một nước mà
nói “lơ mơ” là dễ mang nhãn hiệu “phản động” hay “có vấn đề” thì nỗi sợ
và sự cảnh giác của người dân lúc nào cũng ở trong đầu.
Từ cái nhìn đó, người dân rất dè dặt cung cấp thông tin thật hay nói
lên suy nghĩ thật của mình. Chỉ cần hỏi “dạo này cuộc sống của gia đình
ra sao” thì người dân chưa nghĩ đến câu trả lời mà nghĩ đến hệ quả của
câu trả lời. Hệ quả là nếu câu trả lời xấu thì có thể sợ bị ghi vào “sổ
đen”. Thành ra, dù cuộc sống rất cơ cực, nhưng họ vẫn vui vẻ trả lời
“tốt”. Theo quan điểm của đảng (chưa nói đúng sai), cuộc sống tốt là
công ơn của đảng và Nhà nước. Trả lời “tốt” như thế đảng sẽ vui, Nhà
nước sẽ hài lòng, mà mình thì sẽ an toàn. Tôi nghĩ có lẽ đó là một trong
những lời giải thích tại sao người VN dù rất nghèo khổ, nhưng kết quả
điều tra xã hội cho thấy họ lại là người hạnh phúc nhất nhì thế giới.
Do đó, trong trường hợp này, số liệu là thật, kết quả cũng thật,
nhưng nó không chính xác. Nói theo phương pháp luận của Tây là dữ liệu
có độ reliability cao, nhưng độ accuracy thì rất tồi. Như vậy, kết quả
nghiên cứu khoa học xã hội định lượng ở VN rất khó phản ảnh đúng bản
chất vấn đề.
Nhưng nghiên cứu định tính (qualitative research) ở VN cũng có thể
chẳng đi đến đâu. Bởi vì theo định nghĩa, nghiên cứu định tính là một
cách để mô tả, giải mã, và diễn giải ý nghĩa của các hiện tượng xã hội,
để biết sâu hơn nghiên cứu định lượng. Chính vì “biết sâu hơn” làm cho
người tham gia cảm thấy nghi ngờ (không biết họ dùng trả lời và ý kiến
của mình làm gì đây), nên họ càng không dám nói thật. Mà, có lẽ họ có lí
do chính đáng để sợ, để quan tâm.
Mà, hình như ngành nhân văn học cũng chẳng khá mấy. Nói hơi xa một
chút, vụ can thiệp vào luận văn của Nhã Thuyên là một ví dụ. Tôi nghĩ có
thể xem luận văn là một nghiên cứu định tính về nhóm văn chương Mở
Miệng. Nhóm Mở Miệng hiện hữu ở VN cho dù Nhà nước không công nhận họ.
Một số tác phẩm của nhóm có lẽ không hợp gu của Nhà nước. Thành ra, khi
có người làm luận văn về nhóm thì Nhà nước … nổi nóng. Từ nổi nóng dẫn
đến những lời lẽ đao to búa lớn, kể cả có người tố cáo mạnh rằng nhóm
này “mượn văn nghệ để làm ngọn cờ chính trị hòng lật đổ chế độ, thay đổi
chế độ.” Trời! Một nhóm chỉ có 4-5 người, chỉ đam mê văn chương, mà lật
đổ chế độ thì phải nói là tưởng tượng quá phong phú. Nhưng những cáo
buộc nặng nề như thế từ những người trong giới “chính thống” làm chết tự
do học thuật.
Người ngoài có thể nhìn vào trường hợp can thiệp đó để tự nhũ rằng:
đừng có dính dáng vào những nhóm mà Nhà nước này không công nhận, không
nên viết luận văn với những quan điểm và nhận định mà Nhà nước này không
ưa. Thế thì cuối cùng nền học thuật sẽ bị lệch (bias), chẳng khác gì
trong khoa học người ta chỉ công bố cái gì +ve mà không muốn công bố cái
gì -ve. Khoa học như thế là nền khoa học chết. Tương tự, nền học thuật
một chiều cũng là một nền học thuật què quặt. Einstein từng nói “Khi nói
đến tự do học thuật, tôi hiểu đó là quyền đi tìm sự thật, công bố và
giảng dạy những gì được cho là đúng. Quyền này ám chỉ một nghĩa vụ:
không được dấu giếm bất cứ cái gì được công nhận là sự thật”.