Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

Thử Giải Thích Một Bài Thơ Ngụ Ý Quá Kín Đáo

Trần Từ Mai
Trong văn học Việt Nam cũng như văn học thế giới, thỉnh thoảng ta vẫn gặp những bài thơ, áng văn có lời đẹp nhưng ý tưởng vô cùng kín đáo, mới đọc qua không thể hiểu tác giả muốn nói gì. Tuy nhiên, nếu có người chịu đọc thật kỹ, đối chiếu với cuộc đời cùng hoàn cảnh tác giả, hoặc truy tìm, phân tích nghĩa một số từ ngữ, điển cố hiểm hóc trước khi trình bày ra, ta sẽ thích thú nhận thấy đó là một bài thơ, áng văn đặc sắc và hay. Trong văn học Trung Hoa, bài “Ly tao” của Khuất Nguyên cùng một số thơ của Lý Thương Ẩn có thể xếp vào loại này. Trong văn học Việt Nam gần đây, bài “Đêm dài” của Từ Diễn Đồng (1866-1918) cùng một số thơ sáng tác sau 30-4-1975 của Vũ Hoàng Chương, nhất là bài lục bát “Bành Ngọc Lân” (một văn hữu đã cố gắng giải thích trên Diễn Đàn Thế Kỷ trước đây ít lâu), là những thí dụ cụ thể.

Trên Internet trong thời gian gần đây tái xuất hiện một bài thơ lục bát, được giới thiệu là đã có từ đầu thế kỷ trước, được phổ biến rộng rãi dưới dạng truyền khẩu trong thập niên 1940, được in ra ở Hà Nội trong khoảng đầu thập niên 1950, ở Sàigòn sau cuộc đảo chánh 1-11-1963. Bài này ý nghĩa quá kín đáo nên những người giới thiệu cũng rất dè dặt trong việc giải thích. Tuy cùng công nhận đây là một tác phẩm “rất quan trọng,” các “vi hữu” đưa giới thiệu cũng có nhiều chỗ nghĩ khác hoặc mâu thuẫn nhau.  Để “mua vui” được “vài chục phút,” chúng tôi xin mạo muội góp phần trong việc thử tìm hiểu ý nghĩa bài thơ “hiểm hóc” ấy. Chúng tôi muốn nói tới bài thơ lục bát mang tiêu đề “Bài giáng bút của Liễu Hạnh công chúa” hay “Bài cơ bút đền Sòng” được đưa lên Internet cùng thử tìm cách giải thích một cách nồng nhiệt qua các trang mạng cùng một số trang mạng hay blog cá nhân khác chúng tôi chưa có vinh hạnh được biết trong ít năm gần đây.

Nguyên văn bài thơ như sau:


  1. Hoành Sơlấp lối ra vào
  2. Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương
  3. Cung mây đã sẵn trời giương
  4. Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu
  5. Tên trao ba mũi phục thù
  6. Nào hay Khắc Dụng bày trò cho con
  7. Ngọn cờ lấp ló đầu non
  8. Thạch thành mèo nọ bon bon chạy về
  9. Dặm trường lai láng máu dê
  10. Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn
  11. Trời Nam lại trổi đế vương
  12. Chân nhân đâu phải là phường thày tăng
  13. Đồng dao ta có câu rằng
  14. Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
  15. Bao giờ trổ ngọn thử ly
  16. Ai ơi nhớ lấy sấm ky kẻo lầm
  17. Đang khi sấm gió ầm ầm
  18. Ấy là khí vận để găm trị bình
  19. Thất phu mà lạy thư sinh
  20. Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy Hoàng
  21. Nực cười cho lũ bàng quan
  22. Cờ tàn mà lại toan đường sang xe
  23. Thôi thôi mặc lũ người hề
  24. Gió mây ta lại đi về gió mây.
Những chữ in nghiêng có dị bản như sau:

Câu  1:  rấp
Câu 4 :  rắp
Câu  5 : treo
Câu 7 :  nhô nhấp
Câu 11: Cõi, dựng
Câu 12: không
Câu 14: cũng
Câu 15: bẻ
Câu 16: Xin ai
Câu 17: Rồi đây
Câu 18: khí số, chăm
Câu 19: Vũ phu, lại
Câu 20: Sông ô
Câu 22: thí, đấm

Bài thơ này thuộc loại “không dễ hiểu” vì:
-- Những từ dùng ẩn dụ, ngụ ý: “cáo” gào giả vương, “mèo” bon bon chạy về …
-- Những từ đòi hỏi chút kiến thức về lịch sử, văn hóa Trung Hoa: “Khắc Dụng bày trò,” “ngọn thử ly,” “vân lôi” …
-- Vì ở dạng truyền khẩu quá lâu trước khi được in ra ở Hà Nội trong khoảng 1950-1954 và Sàigòn năm 1964, bài này có nhiều dị bản với ý nghĩa hơi khác nhau. Để cho bài thơ có một ý nghĩa “tổng thể,” chúng ta cũng cần phải cân nhắc giữa các dị bản ấy.

Lai lịch bài thơ:

Tương truyền bài này do vua Thành Thái (vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, sinh năm 1879, mất năm 1954, ở ngôi từ 1889 đến 1907, có tư tưởng chống Pháp, bị họ đưa đi đầy ở đảo Réunion), được Liễu Hạnh công chúa “giáng bút” tặng khi nhà vua muốn hỏi về vận nước. Cũng xin được nói thêm Liễu Hạnh công chúa, hay “Mẫu Liễu Hạnh,” là một trong bốn vị thánh “tứ bất tử” của tín ngưỡng Việt Nam, được thờ ở rất nhiều nơi, nhưng ngôi đền nổi tiếng nhất, được đưa vào ca dao, “Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,” là ngôi đền Sòng Sơn ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa (Ba vị kia là Tản Viên sơn thần, Phú Đổng Thiên Vương, và Chử Đồng Tử). Cũng theo lời tương truyền, chuyện “giáng bút” ấy xảy ra vào năm Nhâm Dần 1902, trước khi nhà vua ra Hà Nội dự lễ khánh thành cầu Long Biên (tên thời Pháp là “cầu Doumer,” theo tên của Toàn quyền Paul Doumer thời ấy). Có thuyết cho rằng vị vua được Liễu Hạnh công chúa tặng bài thơ là vua Tự Đức (vua thứ 4 của nhà Nguyễn, ở ngôi từ 1847 đến 1883). Cho tới nay, chưa thấy xuất hiện một bản viết nào của bài thơ này ở dạng chữ nôm (tất cả các bản hiện có đều ở dạng chữ quốc ngữ), chúng tôi thấy giả thuyết “vua Thành Thái” có phần hợp lý hơn, vì nếu để vua Tự Đức có thể đọc, ắt cần một bản bằng chữ nôm. (Khi ngài còn làm vua, chữ quốc ngữ chưa được thông dụng).

Trong khoảng năm 1944, đầu 1945 (trước khi Việt Minh cướp được chính quyền), người viết những dòng này có được nghe lần đầu tiên một vài câu ở dạng truyền khẩu: Hoành Sơn lấp lối ra vào, Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương …Khi ấy các bậc trưởng thượng trong gia đình cùng những vị khách tới thảo luận băn khoăn không rõ “cáo gào giả vương” muốn nói điều gì. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, những câu “Dặm trường lai láng máu dê, Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn,” và“Chân nhân đâu phải là phường thầy tăng”… rất được truyền tụng(Nhiều thân hữu sống ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An … trong thời gian kháng chiến chống Pháp cũng được nghe những câu ấy). Mãi đến mùa Hè năm 1954, sau biến cố Điện Biên Phủ, khi đang ở Bạch Mai (vùng ngoại ô phía Nam của Hà Nội), chúng tôi mới có dịp được nghe và trông thấy toàn bài.

Bản in đầu tiên đã tìm được là do cụ Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập, và do nhà xuất bản Hương Sơn (6 Đại lộ Gia Long, Hà Nội) phát hành trong những năm 1950-1954. Bài này ở sau phần “Sấm Trạng Trình,” in ở cuối một tập sách về các phép bấm độn Lục Nhâm, Thái Ất. Ở Sàigòn năm 1964, nhà xuất bản Đông Nam Á phát hành một tập Sấm Trạng Trình khác do Hoàng Hoa Lệ chú giải. Bài này cũng được in ở sau phần sấm ký Trạng Trình. Cả hai tài liệu trên đều đã được đưa lên Internet, qua rất nhiều trang mạng như đã trình bày trên. Bài này cũng được tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong (Arlington, Virginia) in lại với lời chú giải trong khoảng năm 1980-1981. Chúng tôi rất tiếc đã không giữ được tập báo này, nhưng được biết một số thư viện ở Hoa Kỳ vẫn còn giữ một sưu tập Văn Nghệ Tiền Phong.  Tuy được truyền khẩu từ trên 100 năm nay và được in ra từ hơn 60 năm, có lẽ do một số điển cố và từ chuyên môn khá khúc mắc, cho tới nay chưa thấy xuất hiện một bản giải thích đầy đủ và tương đối rõ cho bài thơ này. Những hàng sau đây chỉ là chút đóng góp khiêm nhượng của một người yêu thơ và văn học Việt Nam, người cố gắng giải thích chưa dám chắc là mình đã nghĩ đúng. Kính mong các bậc thức giả cùng các “vi hữu” chỉ cho những chỗ thiếu sót hay sai lầm.

Thử giải thích những chữ khó:

Hoành Sơn lấp lối ra vào: 

Hoành Sơn là rặng núi từ Trường Sơn chạy ra biển, giữa ranh giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, chắn ngang đường giao thông từ Bắc vào Nam. Theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúa Nguyễn Hoàng từng vượt qua núi này trên đường vào Nam dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Nay “Hoành Sơn bị ngăn lấp, không đi được nữa.” Với một vị vua nhà Nguyễn, câu thơ mở đầu đã gây một chấn động mạnh (điều xấu sắp xảy tới cho một địa điểm liên quan tới việc dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn). Câu này như cũng báo trước chuyện đất nước chia đôi, vì khi Việt Nam bị tách làm hai sau hiệp định Genève 1954, ranh giới Bến Hải không quá xa Hoành Sơn.

Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương:

Điều xấu được nhắc đến trong câu thơ trên là “nhà Nguyễn chấm dứt.” “Vọng đế” là một biệt hiệu của vua nước Thục, tên thật là Đỗ Vũ. Theo sách Hoàn Vũ Ký của Trung Hoa, sau khi mất nước, hồn vị vua ấy không tiêu tan, hóa thành chim đỗ quyên (chim quốc quốc). “Tiếng quốc kêu, đó là vị vua mất nước. Cáo gào thét, đó là một vua giả” (không phải vua nhưng quyền hành như vua). Câu này cũng cho biết khi nhà Nguyễn mất ngôi, sẽ có “một con cáo” (hay một người khôn ngoan, quỷ quyệt như cáo) gào lên đòi có quyền giống như vua. Đầu năm 1945, các bậc trưởng thượng của người viết những dòng này không biết tiếng “cáo” ấy để chỉ ai.

Cung mây đã sẵn trời giương:

Khi những chuyện ấy xảy ra (nhà Nguyễn mất ngôi, cáo làm vua giả), thì hay hay dở cho đất nước? Câu này mách cho ta biết: “Cung đã được giương ra trên trời” (mây trên trời có hình cung tên), dấu hiệu của một thời ly loạn.  

Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu:

“Xuân Thu” là một thời đại trong lịch sử Trung Hoa, từ năm 722 đến năm 481 trước công nguyên. Ở giai đoạn này, thiên tử nhà Chu suy yếu, không còn khả năng lãnh đạo nên các chư hầu tranh giành, thôn tính lẫn nhau. Nói chung, “thời Xuân Thu” có nghĩa như một thời đại loạn.

Tên trao ba mũi phục thù
Nào hay Khắc Dụng bày trò cho con:

Lý Khắc Dụng (李克用--Li Keyong) nguyên thuộc họ Chu Tà (朱邪—Zhuye), sinh năm 856, mất năm 908, là thủ lãnh của bộ tộc Sa Đà (Shatuo), một sắc tộc thiểu số ở phía Bắc Trung Hoa, thuộc giống Tây Đột Quyết (Western Turkic), xuất xứ từ miền Trung Á. Khi nhà Đường gần sụp đổ vì loạn Hoàng Sào (vua Đường phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục), ông đem quân khôi phục kinh đô Tràng An, phá tan quân giặc khiến Hoàng Sào phải tự tử. Với công lớn, ông được phong tước vương, ban “quốc tính” (dùng họ Lý của vua Đường).  Ít lâu sau Chu Ôn, một tướng cũ của Hoàng Sào nhưng đã hàng nhà Đường, được vua Đường quá tin cậy (đổi tên thành Chu Toàn Trung và cho thêm quyền hành) giết vua Đường để cướp ngôi. Nhiều người khuyên Lý Khắc Dụng tự lập làm vua nhưng ông từ chối. Không công nhận ngôi vua của Chu Ôn, ông tiếp tục giữ niên hiệu vua Đường trong phần đất ông trực tiếp cai trị để tỏ lòng trung với nhà Đường. Theo truyền thuyết, trước khi mất, ông giao cho con là Lý Tồn Úc (李存勖—Li Cunxu) ba mũi tên để “giết ba kẻ đại thù,” một trong ba kẻ ấy là Chu Ôn, người đã giết vua để tiếm ngôi. Sau Lý Tồn Úc thành công, lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Đường, tuyên bố “phục hưng lại nhà Đường” tuy không hề có liên hệ huyết thống.         

Nhiều người cho rằng Lý Khắc Dụng khéo che dấu tham vọng chứ thật ra không trung với nhà Đường. Ông góp phần vào việc tạo hoàn cảnh khiến Chu Ôn có thể giết vua cùng tôn thất nhà Đường, để sau này con ông lên ngôi vua dễ hơn. “Tên trao ba mũi phục thù” chỉ là chút thủ đoạn nhỏ Lý Khắc Dụng bày ra, nhằm giúp Lý Tồn Úc có danh nghĩa mạnh thêm trong việc tranh thắng với Chu Ôn, hầu thay nhà Đường làm chủ nước Trung Hoa. Cũng vì mối nghi kỵ ấy nhà Hậu Đường không bền, chỉ được 13 năm (923-936) trước khi bị nhà Hậu Tấn diệt.

Nhưng đó mới chỉ là vai trò của Lý Khắc Dụng trong lịch sử Trung Hoa. Người viết những dòng này thật tình chưa hiểu rõ ý nghĩa hai câu trên khi đưa vào hoàn cảnh Việt Nam sau khi nhà Nguyễn mất ngôi năm 1945. Phải chăng tác giả muốn nói: Đất nước hóa “một trường Xuân Thu” vì có nhiều kẻ quỷ quyệt, xảo trá, giả nhân nghĩa để đánh lừa mọi người, chứ thật ra không nhân nghĩa chút nào? Hay tác giả muốn nói: Non sông Việt vào tình trạng Xuân Thu vì dân Việt quá khờ khạo, cả tin: thấy Lý Khắc Dụng trao tên, dặn con báo thù cho nhà Đường đã vội cho là trung nghĩa, “nào hay” đó chỉ là “bày trò”? Xin được thỉnh giáo các bậc cao kiến.

Ngọn cờ lấp ló đầu non
Thạch thành mèo nọ bon bon chạy về: 

“Ngọn cờ khi ẩn khi hiện trên núi” có vẻ như “chiến khu lập trên núi.” “Thạch Thành” theo nghĩa đen là một địa danh, tên một huyện ở Tây bắc tỉnh Thanh Hóa, theo nghĩa bóng (bức thành bằng đá) có thể chỉ hang núi. Cắm cờ, lập chiến khu trên núi, khi vận nhà Nguyễn hết, “một con mèo” (“một người tuổi Mão”?) từ bức thành bằng đá (hay “từ huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa”?) bon bon chạy về nắm quyền (ngụ ý nắm được quyền một cách dễ dàng). 

Trong một vài bản giải thích phổ biến trên Net, có vi hữu cho rằng tiếng “mèo” ấy để chỉ vua Bảo Đại, vị vua cuối của nhà Nguyễn. Chúng tôi thấy rất khó liên hệ vua Bảo Đại với tiếng “mèo,” vì nhà vua sinh ngày 22/10/1913 (tuổi Quý Sửu). Nếu nói vì nhà vua thuộc dòng họ Nguyễn ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung), tỉnh Thanh Hóa thì hơi gượng, vì chữ “Miêu” trong tên làng Gia Miêu là “mạ non” chứ không phải “con mèo.” Nhiều vị khác cho rằng tiếng “mèo” trong câu này để chỉ lãnh tụ CS Hồ Chí Minh, vì tuy ông có nhiều lý lịch với nhiều năm sinh khác nhau (1888, 1889, 1890, 1892, 1894) nhưng hầu như ai cũng biết rằng ngày sinh được tuyên bố “chính thức” (19 tháng 5 năm 1890) không phải ngày sinh thật. Theo nhiều vị bô lão ở Nam Đàn, Nghệ An, ông sinh năm Tân Mão 1889. Trong cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên(trang 316), nhà biên khảo Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng cung cấp lá số của một người sinh năm Tân Mão 1889, và cho biết đó là “một lá số gian hùng,” cùng đến năm Bính Thân 1956  người ấy “đã có sự nghiệp lớn” nhưng “hại dân hại nước.” Vân Đằng Thái Thứ Lang có một ông bác ruột, một vị Phó Bảng danh tiếng, một học giả uyên bác, kẹt trong vùng kháng chiến từ 1946 và được HCM nể trọng. Sự kiện ông biết tuổi thật của ông HCM không phải là điều đáng ngạc nhiên. Chúng tôi thiên về giả thuyết này.

Dặm trường lai láng máu dê
Con quay ngã trắng, ba que cuộc tàn: 

Câu thơ trên cho biết sau khi “người tuổi Mão” (?) nắm được quyền, chiến tranh xảy ra và người Pháp chết rất nhiều. Nghĩa chữ Hán của con dê là “dương,”đồng âm với chữ “dương” là biển, đưa tới từ “dương nhân” để chỉ người ngoại quốc. Câu thơ sau muốn nói: Khi cuộc chiến kết thúc, người Pháp sẽ thua (con quay bị ngã có màu trắng), sau đó, cờ ba gạch của phe Quốc gia không xuất hiện ở miền Bắc nữa.

Trời/Cõi Nam lại trổi/dựng đế vương
Chân nhân đâu/không phải là phường thày tăng
Đồng dao ta có câu rằng
Non xanh mà mọc trắng răng mới/cũng kỳ: 

Tuy cờ của phe Quốc gia không còn ở miền Bắc nhưng một quốc gia được lập nên ở miền Nam. Quốc gia này có nhiều nhược điểm. Một số tăng sĩ Phật giáo tưởng mình là “chân nhân,” có khả năng cứu đời (trong khi thực ra mình không có). Nhiều người “trắng răng” dắt nhau lên “non xanh.” Khi bài thơ này được đưa ra ở đầu thể kỷ trước (1902) đa số dân Việt, nhất là ở nông thôn, còn để răng đen. Mấy tiếng “bọn trắng răng” đồng nghĩa với “người thành thị.” Trong quốc gia mới thành lập ở miền Nam ấy, lạ thay, một số người thành thị lại dắt nhau vào non xanh! Không rõ câu này có dùng để ám chỉ một số khá đông thanh niên trí thức nhiều đô thị miền Nam đã – vì nhiều lý do khác nhau -- “ra bưng” hay “nhảy núi,” giúp CS chống phá chính thể miền Nam? “Đồng dao” là lời hát của trẻ con. Với hai câu 13-14, “trẻ con cũng biết như thế là kỳ lạ,” hình như tác giả có ý chê trách.

Bao giờ trổ/bẻ ngọn thử ly
Ai ơi/Xin ai nhớ lấy sấm ky kẻo lầm: 

Vì có nhiều mâu thuẫn nội bộ trong lúc phải đối phó với một lực lượng mạnh hơn đang nhất quyết tìm cách tiêu diệt mình, quốc gia mới thành lập ở miền Nam ấy không tồn tại được lâu.  Hai câu 15-16 khuyên: bao giờ thấy “ngọn thử ly” mọc lên (hay khi bẻ ngọn ấy), hãy nhớ lấy lời sấm. Lời sấm ra sao, tác giả không nói rõ. Then chốt của hai câu này nằm trong ba tiếng “ngọn thử ly.”

“Thử ly” 黍離 là tên một bài thơ trong Kinh Thi, bài thứ 65 của toàn tập, bài thứ nhất trong phần “Vương phong,” phần các thơ của nhà Chu sau khi kinh đô đã dời về phương Đông. (Trong cuốn Thi Kinh Tập Truyện do cụ Tạ Quang Phát dịch sang tiếng Việt, Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục xuất bản ở  Sàigòn năm 1969, bài này ở tập I, từ trang 315 tới trang 321). “Thử” ở đây là một loại lúa nếp, thân cao. “Ly ly” là xum xuê, rườm rà. Sau khi nhà Chu đã dời về phương Đông (và suy đi rất nhiều), những người đi qua kinh đô hoang phế ở phương Tây thấy lúa đã mọc trên nền cung miếu cũ mà ngậm ngùi, thương cho một triều đại không còn. “Bao giờ có một triều đại mất rồi nhưng được người ta nhớ tiếc, hãy nhớ lấy lời sấm.” Vì câu này nối sau những câu về một quốc gia dựng nên ở miền Nam, triều đại “mất rồi mới được nhớ tiếc” ấy phải chăng là Việt Nam Cộng Hòa?  Bốn câu đầu của bài thơ đã cho biết bao giờ nhà Nguyễn mất và cáo làm vua giả, đất nước sẽ thành “một trường Xuân Thu.” Vậy năm 1975, Việt Nam thống nhất làm một, đã hết “Xuân Thu” chưa? Theo bài thơ này thì chưa. Chế độ xua quân chiếm miền Nam là chế độ do “cáo” lập nên. Chiến dịch đánh tới Sàigòn là một chiến dịch mang tên “cáo.” Vậy “Xuân Thu” chưa hết. Những người hăm hở nhảy ra lập công, “nối vòng tay lớn” (như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngày 30-4-1975) là đã “lầm.”

Trong các bản giải thích trên Net, có vi hữu cắt nghĩa “thử ly” là “con chuột và con hồ ly.” Chúng tôi không nhận thấy như thế.

Đang khi/Rồi đây sấm gió ầm ầm
y là khí vận/s để găm/chăm trị bình: 

Xuân Thu” sẽ chấm dứt sau một cơn “sấm gió ầm ầm.” Nói cách khác, lúc “sấm gió ầm ầm”chính là lúc khí vận/khí số của đất nước chuyển từ “Xuân Thu” sang thái bình, thịnh trị. Người viết những dòng này tự thấy chưa đủ khả năng giải thích mấy từ này, chỉ xin tạm đưa ra giả thuyết: 

“Sấm gió ầm ầm” có thể được hiểu theo nghĩa đen: thiên tai, động đất, giông bão lớn, đưa tới nạn lụt, sóng thần…, gây hại tới hoa lợi, mùa màng. Có thể được hiểu theo nghĩa bóng: lòng dân sôi sục, phẫn uất tới cao độ. Có thể được hiểu theo nghĩa rộng: biến cố chính trị, xáo trộn lớn ở một quốc gia gần và có ảnh hưởng đáng kể tới Việt Nam. Có khi ba yếu tố trên cùng xảy tới một lúc, hỗ trợ lẫn cho nhau. Hai câu trên có thể cũng ngụ ý: Với những người có lòng với đất nước, khi thấy “sấm gió ầm ầm” chớ nên sợ hãi. Đó là lúc vận khí của sông núi chuyển từ “Xuân Thu” sang bình trị. Xin được thỉnh giáo các bậc cao kiến.

Thất phu/Vũ phu mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy Hoàng: 

“Thất phu” nguyên nghĩa là một người tầm thường, không có địa vị, chức vụ gì, nhưng đôi khi được hiểu như một người thô tục, lỗ mãng. Vũ phu là loại người thô bạo, dùng sức mạnh để lấn hiếp người khác. Thư sinh là người đọc sách, thường được gán cho đặc tính “trói gà không chặt.” Thất phu, nhất là vũ phu, thường chỉ hiếp đáp thư sinh. Họ chịu “lạy” thư sinh là chuyện bất bình thường. Nhưng khi chuyện ấy xảy ra thì những người “vân lôi” sẽ thắng “mấy anh Thủy Hoàng” (phe nhóm cai trị một cách độc đoán, tàn bạo như Tần Thủy Hoàng). Then chốt của hai câu này (cũng như của toàn thể bài thơ) nằm trong hai chữ “vân lôi.”

“Vân lôi” 雲雷 là tên gọi một cách văn chương của quẻ Truân , quẻ thứ ba trongKinh Dịch, sau quẻ Càn (Kiền) để chỉ trời và quẻ Khôn để chỉ đất. Sau khi có trời đất, muôn vật sinh sôi nảy nở, nhưng buổi đầu thường gian nan, khó khăn, nên quẻ Truân tượng trưng sự gian nan, khó khăn trong buổi đầu. Trong các bản Kinh Dịch chuyển sang tiếng Anh, các học giả Tây phương (như Richard Wilhelm, Raymond Van Over …) diễn ý quẻ này là “Sprouting” (việc nảy mầm) hay “Initial difficulties”(những khó khăn trong buổi đầu). Theo lời “Thoán” của Văn vương, quẻ Truân là một quẻ tốt (có đủ bốn “đức” của những quẻ tốt trong Kinh Dịch: nguyên (đầu tiên và lớn lao), hanh(hanh thông) lợi (thích đáng, làm điều tốt) và trinh (chính đáng và bền). Khi gặp quẻ Truân, nên “giữ vững điều chính” (trau giồi đức độ, khả năng, cương quyết giữ lẽ chính). Quẻ cũng cho biết: “lợi kiến hầu” (“kiến” ở đây là kiến tạo, “cử những người giỏi lên tước hầu”) nghĩa bóng là sẽ hữu ích nếu biết tìm những người tài giỏi, cùng lý tưởng, hoài bão … để có thể chung lo với mình. Theo lời cụ Phan Bội Châu, quẻ này chỉ “những người có tài đức, có gan mạo hiểm, gặp buổi thiên hạ truân nạn, muốn ra cứu đời.” Nhưng quẻ khuyên “phải cẩn thận kỹ càng,” “chẳng nên vội vàng khinh tấn.”(Phan Bội Châu. Chu Dịch. Sàigòn : Khai Trí, 1969. Cuốn I, trang 134).

Quẻ Truân 

được viết với quẻ Khảm  (là nước) ở trên, quẻ Chấn  (là sấm) ở dưới, nên có danh hiệu đầy đủ là  “Thủy Lôi Truân.” Sấm động mạnh, nước sẽ hóa ra mây. Cụ Phan Bội Châu viết thêm như sau: “Mây có rồi, sấm có rồi, thế nào cũng đến ngày mưa tới” (sách đã dẫn, trang 137). James Legge, một học giả Tây phương rất uyên bác về văn minh Trung Hoa, đề cập tới một khía cạnh quan trọng nữa của quẻ Truân. Ông nhắc ta chữ Truân屯 ,với hình tượng một mầm non, cố gắng một cách khó khăn để vươn lên trên mặt đất, biểu tượng những tranh đấu để một quốc gia vươn lên khỏi tình trạng hỗn loạn sau một cuộc cách mạng (“to symbolise the struggles that mark the rise of a state out of a condition of disorder, consequent on a great revolution”) (I Ching : Book of Change. Translated by James Legge. New York : Bantam Book, 1969.  Page 63). Tóm lại, quẻ Truân khuyên những người ôm hoài bão giúp đời nên ẩn nhẫn, tiềm tàng sức mạnh (trinh), đừng vội vàng khinh tiến, như một mầm non đợi một cơn mưa lớn. Khi thời cơ thuận tiện tới (có mây, có sấm, chắc chắn sẽ có mưa như lời cụ Phan Bội Châu), mầm non sẽ vọt lên trên mặt đất một cách dễ dàng.

Lời “Đại tượng” (biểu tượng tổng quát) của quẻ này nói: “Vân lôi truân, quân tử dĩ kinh luân 雲雷屯君子以經綸” (Gặp quẻ Truân, người quân tử đem tài sức ra giúp đời, đưa mọi vật từ hỗn loạn trở về trật tự).

Trong Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, giáo sư Dương Quảng Hàm trích giảng một bài thơ khuyết danh, “Nhân nguyệt vấn đáp” (Người và trăng hỏi đáp nhau). Hai câu 43-44 của bài ấy là:
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử
Buổi vân lôi hai chữ kinh luân.

Nho sĩ, trí thức thời xưa rất thông thạo Kinh Dịch. Chỉ cần nghe hai tiếng “vân lôi,” người ta lập tức nghĩ đến ngay cả câu: “Vân lôi truân, quân tử dĩ kinh luân.” 

Cho nên hai câu thơ:
Thất phu (hay Vũ phu) mà lạy thư sinh
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy Hoàng

chỉ có nghĩa: “khi nào mấy anh thất phu (hay vũ phu) … phải quỳ lạy những thư sinh, thì những người có hoài bão làm cho đất nước tốt đẹp hơn sẽ thắng những kẻ cầm quyền độc tài.” Nhưng ngược lại, hai câu này cũng ngụ ý, “muốn thắng ‘mấy anh Thủy Hoàng’ người có lòng với đất nước cần hiểu thấu và thực hiện những lời khuyến cáo nêu ra trong quẻ Truân.”

Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tàn mà lại toan đường sang (đấm/thí) xe: 

“Lũ bàng quan” là những người đứng nhìn từ bên cạnh (người ngoài). Tuy ván cờ đã tàn, sự được thua đã rõ, họ còn cố can thiệp để mong đem lại kết quả theo ý họ, hoặc bằng áp lực quân sự trực tiếp (sang xe, đấm xe), hoặc bằng cách mua chuộc, đưa quyền lợi ra nhử những người ham lợi nhỏ để tránh cho khỏi bị thua (thí xe). Theo bài thơ, họ sẽ chỉ làm trò nực cười, vì khi cờ đã tàn, không cách gì có thể cứu vãn được nữa.

Thôi thôi mặc lũ người hề
Gió mây ta lại đi về gió mây:

Tác giả bài thơ (Liễu Hạnh công chúa?) không bận tâm với “lũ người hề” ấy, lại thảnh thơi vui với gió mây.

Tóm nghĩa bài thơ ra văn xuôi:

Sau khi giải xong những điển cố và từ ngữ khúc mắc, ta thấy nghĩa bài thơ hiện ra như sau:
“Hoành Sơn bị ngăn lấp. Nhà Nguyễn sắp mất. Một con cáo gào lên để có quyền như vua mà không phải là vua. Mây trên trời thành hình cung tên. Đất nước sắp chịu cảnh hỗn loạn, chiến tranh. Có những kẻ giảo quyệt, giả bộ nhân nghĩa chứ thực ra không phải như thế (Lý Khắc Dụng bày trò).

Sau khi cắm cờ, lập chiến khu trên núi, “một con mèo” từ hang đá chạy về nắm quyền một cách dễ dàng. Chiến tranh xảy ra, người ngoại quốc chết nhiều. Người Pháp sẽ thua (con quay ngã trắng), cờ ba gạch thất thế.

Một quốc gia lập nên ở miền Nam. Có những tu sĩ tưởng lầm mình là chân nhân. Nhiều trí thức thành thị làm một chuyện kỳ lạ là dắt nhau vào núi.

Bao giờ một chế độ phải đợi sau khi mất mới được nhớ tiếc không còn hiện hữu nữa (“ngọn thử ly”), hãy nhớ lấy lời sấm. (Đất nước rơi vào tình trạng “Xuân Thu” khi “cáo” lên ngôi. Với biến cố 1975, đất nước chưa thoát khỏi “Xuân Thu” vì chế độ của “cáo” vẫn còn đó). Xuân Thu sẽ chuyển sang bình trị khi “sấm gió ầm ầm” nổi lên. Khi những anh thất phu (hay vũ phu) lạy những người học trò, những người muốn đất nước tốt đẹp hơn (vân lôi) sẽ thắng kẻ cầm quyền độc tài. Ván cờ đã tàn, đáng cười cho những kẻ còn muốn can thiệp một cách vô ích. Không bận tâm đến “lũ người hề,” ta lại vui với gió mây.

Theo tinh thần 6 câu cuối của bài “giáng bút”này, chế độ do “cáo” dựng nên sẽ sụp đsau một cơn “sấm gió ầm ầm.” “Lũ bàng quan” chỉ làm trò “nực cười” khi tìm cách ngăn cản. Liễu Hạnh công chúa không bận tâm tới “lũ người hề” ấy.

Nhận xét:

)      Nên có thái độ dè dặt:

Tuy có để tâm đến sấm ký như một phần của văn học dân gian, và cho rằng chúng ta nên đọc, nên biết qua những câu sấm liên quan đến lịch sử, người viết những dòng này vẫn nghĩ nên có thái độ dè dặt khi bàn tới ý nghĩa những tác phẩm thuộc loại này. Việc thảo luận không nên đi quá phạm vi “trà dư tửu hậu.” Ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa trước kia, sấm ký thường được sáng tác với mục đích chính trị, nhất là khi người đặt ra có ý muốn thay đổi triều đại. Câu thơ chiết tự “Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành” 禾刀木落, 十八子成 (ghép lại thành “lê” rụng, “lý”  thành) đã do những người ủng hộ Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn đặt ra để vận động cho việc đưa ông lên làm vua thay nhà Tiền Lê. Những chữ “Lê Lợi vi quân …” trên lá cây đã do chính Nguyễn Trãi dùng bút viết bằng mỡ cho kiến đục. Khi khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đưa ra câu sấm “Tây sơn Biện Nhạc vi vương.” Khi nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tuy Phan Bá Vành cho loan truyền câu ca dao “Trên trời có sao tua rua, Ở dưới hạ giới có vua Ba Vành,” “vua” vẫn bị bắt và bị chém. Nhiều đoạn thơ gọi là “sấm Trạng Trình” không đáng được tin vì ở thể song thất lục bát, một thể thơ đến thế kỷ 17-18 mới thông dụng ở Việt Nam, trong khi Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mất từ thế kỷ thứ 16. Nhiều phe nhóm, đoàn thể chính trị đã “chế tác” ra sấm để vận động, lôi kéo quần chúng. Bài viết này chủ yếu là một cố gắng trong phạm vi văn học, cốt để làm rõ nghĩa một số từ khúc mắc trong một bài thơ hay và đáng được chú ý, đang phổ biến rộng rãi trên Net.

Tuy nhiên, khi thử đặt câu hỏi, “Nếu đây không đích thực là một bài giáng bút từ Liễu Hạnh công chúa, thì ai đã mạo danh bà đưa ra bài thơ này?” người viết thấy cần phải suy nghĩ thêm.

)      Những ai có thể là tác giả bài thơ “giáng bút”?

Những người Cộng sản là những người dễ bị nghi hơn cả. Trong bài có nhiều câu hữu ích cho họ: nhà Nguyễn sẽ mất ngôi, người Pháp sẽ thua (con quay bị ngã có màu trắng), phe Quốc gia thất bại (“ba que cuộc tàn”), khiến ta có cảm tưởng rất có thể họ  đứng sau bài thơ này. Nhưng nếu quả thực bài thơ này do họ đặt ra, sẽ không có chuyện gọi người cầm đầu của họ là “cáo” (vốn mang nghĩa xấu), sẽ không có câu: khi cáo làm vua giả, non sông hóa “một trường Xuân Thu” (không tốt đẹp gì). Và trong bài thơ này, phổ biến trễ nhất trước 1945, không có lý do để họ loan báo sẽ có một quốc gia dựng nên ở miền Nam sau khi họ đã thắng người Pháp. Những câu 17-20 bất lợi cho họ rõ ràng. Thiết nghĩ những người Cộng sản nên được “trắng án” trước mối hoài nghi này.

Dễ bị ngờ thứ hai là các đảng phái quốc gia, phe Quốc gia chống Cộng. Nhưng nếu  tạo dựng ra bài này, không lẽ các vị lại tự miệt thị, tự gây hại cho mình qua mấy tiếng “ba que cuộc tàn”? Một khi đã nhận thấy họa Cộng sản còn tai hại hơn người Pháp, tại sao lại có những câu báo trước người Pháp sẽ thua? Đưa thêm 14 câu (từ câu 11 trở đi) với mục đích gì? Cho phổ biến bài này trước 1945, các tổ chức, đoàn thể quốc gia không có lợi chút nào.

Câu “Chân nhân đâu phải là phường thầy tăng” với giọng khinh miệt và chê trách cho thấy tác giả bài này cũng không phải một tăng sĩ hay một tổ chức, đoàn thể Phật giáo. Ta khó tìm được lý do tại sao một tăng sĩ hay một đoàn thể Phật giáo lại mạo danh Liễu Hạnh công chúa, đưa ra bài thơ này để chê bai, miệt thị chính tập thể của mình.

Với những từ “Khắc Dụng, thử ly, vân lôi”… bài thơ này có thể là sản phẩm của một nho sĩ hay một nhóm nho sĩ. Nhưng phân tích kỹ hơn, ta thấy như sau:

Giới nho sĩ, trí thức theo Nho học của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20 (sau năm 1902, trước năm 1945) có thể coi như thuộc một trong ba thành phần:
Thành phần thứ nhất là các nho sĩ yêu nước. Các cụ hoặc cộng tác trong phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu (trường hợp các cụ Đặng Tử Kính, Tiểu La Nguyễn Thành …), hoặc phong trào Duy Tân của cụ Phan Châu Trinh (trường hợp các cụ Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng …). Từ 1907, các cụ bận rộn với Đông Kinh Nghĩa Thục (nhất là các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Dương Bá Trạc …). Miệt mài trong công việc sáng tác thơ văn yêu nước để kêu gọi mọi người “thức tỉnh” cùng thực hiện “duy tân,” các cụ không có lý do mất khá nhiều thời giờ làm ra cùng tìm cách phổ biến một bài thơ đầy tính cách huyền bí, không ích lợi thực tiễn ngay lúc đó như bài thơ này. Nếu muốn dùng sấm ký để vận động quần chúng, sấm ký ấy hẳn phải có mục đích chống Pháp (mối quan tâm chính của các cụ vẫn là cuộc đô hộ của người Pháp). Họ chỉ được nhắc đến trong vẻn vẹn 10 chữ của bài thơ khá dài này. Chuyện họ bị thua chỉ được nói phớt qua, xen giữa nhiều chuyện khác với ngụ ý những chuyện khác mới thực sự quan trọng. Tóm lại, bài thơ này không ở trong mục tiêu sáng tác của các cụ.

Thành phần thứ hai là giới nho sĩ tạm chấp nhận cuộc đô hộ của người Pháp, chuyên tâm với văn chương, học thuật, dịch thuật …, cộng tác với Đông Dương Tạp Chí vàNam Phong Tạp Chí. Ta có thể kể các cụ Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Học … Mối quan tâm của các cụ không ở những điều huyền hoặc, quá xa xôi, liên quan đến “chuyện đất nước” mà các cụ đã tạm gác qua một bên. Quá bận rộn trong trách vụ tự đặt ra cho mình, các cụ không có lý do để sáng tác cùng tìm cách phổ biến bài thơ này.

Thành phần thứ ba là giới nho sĩ “bất đắc chí” như Từ Diễn Đồng, Phan Điện, Hoàng Trà..., vào xã hội khi nho học đã suy tàn. Các vị này để lại nhiều bài thơ ngắn, ngậm ngùi than thở hay châm biếm thời cuộc (“Năm cửa chỉ còn chòi cửa Bắc, Cột cờ sao thấy lá cờ Tây? …” hay, “Hàng xóm láng giềng ai đã dậy, Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho”). Ta cũng không tìm được động cơ khiến các vị băn khoăn, bận tâm đến những chuyện quá xa vời, kể cả sau khi người Pháp đã thua, như ý chính của bài thơ này.

Một yếu tố đáng nói nữa là xã hội Việt Nam trước 1945 trọng nếp sống tâm linh. Liễu Hạnh công chúa là một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng Việt Nam và rất được kính ngưỡng. Cùng với Hưng Đạo đại vươngbà là vị được thờ phụng ở nhiều nơi hơn cả. (“Tháng Tám giỗ Cha [Hưng Đạo đại vương], tháng Ba giỗ Mẹ” [Liễu Hạnh công chúa]). Các đền thờ “Mẫu Liễu Hạnh,” hay “Thánh Mẫu” được coi là rất linh thiêng:
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh.

Không kể những phe phái, tổ chức chính trị mà ta đã dùng phương pháp loại suy gạt sang một bên như phía trên, với những người bình thường, ít ai dám không dưng đặt ra một bài thơ dài, khá công phu, để rồi “gán” cho Liễu Hạnh công chúa là tác giả. Bà được biết đến như một vị tiên, một “Thánh Mẫu,” nhân từ với người kém may mắn nhưng rất nghiêm khắc với kẻ thất kính. Theo Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm trong Vân Cát Thần Nữ (sự tích vị thần nữ thôn Vân Cát, tức Liễu Hạnh công chúa): “Tiên Chúa thường hiển hiện phép màu, giúp lành, trị ác. Dân vùng kính sợ …, dựng đền thờ cúng” (Đoàn Thị Điểm. Văn Tuyển. Bùi Hạnh Cẩn dịch, khảo cứu, biên soạn. Hà Nội : NXB Văn Hóa Thông Tin, 2002. Trang 127). Trong dân gian, ít ai dám “giỡn” với bà. Thêm vào đó, như ta đã thấy, làm được một bài thơ như bài “giáng bút” này không dễ chút nào. Người viết phải có kiến thức về lịch sử cùng văn hóa Trung Hoa (Kinh Thi, Kinh Dịch). Đứng về phương diện văn chương, đây là một bài thơ hay. Lời văn thanh nhã, lưu loát, chữ dùng súc tích, âm điệu uyển chuyển, với những vế tiểu đối tề chỉnh:
Quốc kêu Vọng đế, cáo gào giả vương.

Điểm then chốt là chỉ trong 22 câu thơ đầu, tác giả đã vừa bình luận, vừa báo trước những biến cố chính của lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay một cách gọn ghẽ, khá đầy đủ, đúng trình tự, và vô cùng xuất sắc: Nhà Nguyễn mất, cáo từ hang núi lên ngôi, người Pháp thua, một quốc gia dựng nên ở miền Nam, cùng những lý do khiến quốc gia ấy sụp đổ… Đây khó có thể là một sự mạo danh. Và dù không phải Liễu Hạnh công chúa đã thực sự “giáng bút,” với tầm nhìn và cách diễn đạt như thế, tác giả bài thơ này cũng không phải một người tầm thường.  

Tìm hiểu thêm về Liễu Hạnh công chúa:

Theo tín ngưỡng dân gian được ghi lại trong Qung Cung Linh T Ph KýQung Cung Linh T Bi Ký  Cát Thiên Tam Thế Thc Lc hin được lưu gi tại nhiều đền thờ Liễu Hạnh công chúa ở Nam Định, bà nguyên là một vị tiên, “con gái thứ hai của Thượng Đế,” xuống trần vì một sơ xuất nhỏ trên thiên cung (đánh vỡ chén ngọc), vào làm con những gia đình “tu nhân tích đức”(một hình thức thưởng công của Thượng Đế cho những gia đình này). Bà đã đầu thai và tái sinh ở Việt Nam ba lần.

Lần thứ nhất, bà sinh ra vào thời Hậu Lê (thế kỷ thứ 15), tại xã La Ngạn, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, làm con một gia đình họ Phạm. Là một người con chí hiếu, tuy rất xinh đẹp, được nhiều người cầu hôn, bà không lập gia đình để săn sóc cha già mẹ yếu. Sau khi cha mẹ khuất núi, bà “giúp dân đắp đê, làm cầu, khơi ngòi dẫn nước, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người đau ốm, tu sửa nhiều ngôi chùa.” Bà còn “chiêu tập những dân phiêu tán, lp ra làng xã, dạy dân trng dâu, nuôi tm, dt vi…” Bà “về trời” năm 40 tuổi, khi trời nổi cơn giông với mây bay, gió cuốn.

Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương cõi trần, bà tái sinh vào đời Lê Trung hưng (thế kỷ 16) ở thôn Vân Cát, xã An Thái, sau đổi tên thành Tiên Hương (quê hương của tiên), nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Lần này bà là con một gia đình họ Lê. Bà cũng rất xinh đẹp, có tài văn thơ, thành hôn với một người họ Trần, sinh một trai, một gái, nhưng hết hạn, “về trời” năm 21 tuổi. Thương cha mẹ, chồng con, bà xin Thượng đế cho trở lại nhân gian để hướng dẫn, an ủi cha mẹ và chồng. Sau đó bà hiển linh, trao đổi nhiều vế đối xuất sắc với Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, cùng làm một bài thơ liên ngâm với ông cùng hai người bạn văn của ông. Những thơ và câu đối ấy cho thấy bà rất có văn tài.

Vì lòng chung thủy, bà tái sinh thêm một lần nữa vào thế kỷ 17 ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa để gặp lại người chồng kiếp trước, cũng tái sinh. Lần này bà cũng có văn tài, làm thơ hay, sinh được một con trai, khích lệ chồng trong việc học. Sau người chồng thi đỗ, làm quan trong viện Hàn lâm. Cuộc sống thế gian của bà lần này chỉ có 18 năm.

Tác giả quan trọng đầu tiên viết về Liễu Hạnh công chúa không ai khác hơn là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748) như trên đã nói. Trong cuốn Truyền Kỳ Tân Phảcủa nữ sĩ họ Đoàn, cuộc sống thế gian của Liễu Hạnh công chúa trong hai lần tái sinh ở thế kỷ 16 và 17 được chép trong truyện “Vân Cát thần nữ.” Đoàn Thị Điểm cũng sưu tập được những sáng tác của Liễu Hạnh công chúa, kể cả những câu đối và bài thơ liên ngâm với Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan cùng các văn, thi hữu của ông.

Sự kiện Liễu Hạnh công chúa đầu thai cùng tái sinh tới ba lần ở Việt Nam cho thấy bà rất giàu tình cảm, trọng tình nghĩa, thương người, thương dân, và có nhiều thiện cảm với đất nước, dân tộc Việt. Nếu có vì lời khẩn cầu của vua Thành Thái (một vị vua yêu nước) mà bà tìm cách báo trước vận mệnh đất nước, cũng là điều hợp lẽ tự nhiên. Bài thơ “giáng bút” rất có giá trị văn chương như chúng ta đã thấy, đúng là tác phẩm của một bậc có văn tài, không phải ai cũng làm được.

Một điểm đáng chú ý nữa là trong bài thơ “giáng bút,” Liễu Hạnh công chúa không chỉ mách cho biết những chuyện sắp xảy ra mà còn gửi tình cảm vào đó. Ta có thể cảm nhận thấy nỗi ngậm ngùi của bà trong hai câu 3-4:
Cung mây đã sẵn trời giương
Non sông sắp đổi một trường Xuân Thu.

Khi nhắc đến quốc gia dựng nên không được lâu ở miền Nam, bà có giọng bực bội, trách móc:
Chân nhân đâu phải là phường thầy tăng.

Sau khi đất nước đã thống nhất năm 1975, bà đổi sang giọng tha thiết khi cảnh báo mọi người: chưa hết “Xuân Thu” đâu:
Bao giờ trổ ngọn thử ly
Ai ơi nhớ lấy sấm ky kẻo lầm.

Quan trọng nhất là khi mách cho biết “thư sinh” sẽ còn phải trực diện với “thất phu” (hay “vũ phu”), bà chuyển sang ngôn từ chủ quan (dùng tiếng “ta”) với giọng mạnh mẽ và dứt khoát:
Vân lôi ta chấp mấy anh Thủy Hoàng.

Tiếng “ta” ở đây cho thấy bà tỏ tinh thần đồng cảm, tự nhận ở cùng phía với nhữngngười ôm hoài bão “vân lôi,” và thách thức, khinh miệt “mấy anh Thủy Hoàng.”

Dân tộc Việt vẫn tin ở “hồn thiêng sông núi,” ” anh linh tiền nhân.” Với ba kiếp sống kỳ diệu ở Việt Nam và được sùng bái liên tục từ thế kỷ thứ 15, Liễu Hạnh công chúa chính là một phần quan trọng của “khí anh linh” ấy. Đối với một vị trong cuộc sống thế gian đã từng “giúp dân đắp đê, làm cầu, khơi ngòi dẫn nước, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người đau ốm” và “chiêu tập những dân phiêu tán, lp ra làng xã, dạy dân trng dâu, nuôi tm, dt vi…,” thì việc đưa ra bài “giáng bút” với những tình cảm như vừa kể có lẽ cũng là một hành động tự nhiên.

Bài “giáng bút” đã được thực hiện như thế nào?

Chúng ta không có tài liệu để có thể biết đích xác bài thơ đã được sáng tác hay “giáng bút” như thế nào. Theo nhan đề thứ hai của bài, “Cơ bút đền Sòng,” nhiều phần bài này đã được đưa ra tại đền Sòng Sơn, ngôi đền thờ Liễu Hạnh công chúa ở thị trấn Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá, bằng phương pháp cơ bút.

Cơ bút gồm “phù kê” (cũng đọc là “phù cơ”) 扶乩 và “chấp bút” 筆, là phương pháp để biết ý các thế lực siêu nhiên qua những người đồng dùng bút bằng gỗ đào hay gỗ liễu để viết trên mâm gạo hay mâm cát. (Kê 乩 ở đây có nghĩa là “bói toán”). Phương pháp này bắt đầu có ở Trung Hoa từ đời Lưu Tống (420-479, một triều đại ngắn trong thời kỳ Lục Triều, sau nhà Tấn và trước Tùy, Đường), rất thịnh hành trong đời nhà Tống (960-1279, cũng gọi là Triệu Tống để phân biệt với Lưu Tống), lôi cuốn được nhiều văn thi sĩ đương thời, trong đó có Tô Đông Pha. Phương pháp này cũng được thông dụng trong đời Minh, bị cấm đoán (nhưng không hiệu quả) trong đời Thanh. Ở Trung Hoa, người đồng có thể viết bằng gỗ đào hay gỗ liễu, trên mâm gạo hay mâm cát.

Chưa rõ phương pháp này được đưa sang Việt Nam từ bao giờ, nhưng ở Việt Nam bút phải là một cành gỗ đào quay về hướng đông, và viết trên mâm gạo. Người ngồi đồng phải “trai giới” (thường là ăn chay từ ba ngày). Trước bàn thờ với hương hoa, người ngồi đồng bắt đầu viết sau khi đã “nhập đồng,” có một người ngồi bên để chép lại ra giấy. (Theo nguyên tắc, ít nhất phải có hai người “hầu bút” và một người “chứng đàn.” Nguời “chứng đàn” phải là một người có uy tín, đạo hạnh cao). Bài thơ có lẽ đã được đưa ra trong một khung cảnh tương tự như trên, trước sự hiện diện của vua Thành Thái hay một người do vua ủy nhiệm. Cơ bút cũng là nền tảng căn bản của đạo Cao Đài, từ thuở khai sinh cho tới việc giảng truyền và duy trì giới luật.

Kết luận

Như đã trình bày trên, bài thơ “giáng bút” của Liễu Hạnh công chúa là một tác phẩmvô cùng đặc biệt, đáng được chú ý cùng tìm hiểu kỹ hơn. Có cơ duyên được nghe một số câu của bài này lần đầu tiên năm 1944 ở tuổi lên 8, được biết toàn bài (cùng bắt đầu băn khoăn, day dứt) năm Giáp Ngọ 1954 ở tuổi 18, người viết những dòng này ngẫu nhiên đã có hoàn cảnh thao thức về ý nghĩa của bài thơ ấy đã được một chu kỳ hoa giáp vừa đúng 60 năm.

Tuy bắt đầu cầm bút với mục đích đơn giản là góp phần làm rõ nghĩa một bài thơ ý tưởng quá kín đáo, nhưng tới đây, người viết không tránh khỏi bùi ngùi. Tuy được đưa ra từ đầu thế kỷ trước, bài thơ có vẻ như đã bàn tới những chuyện xảy ra ở Việt Nam từ khi nhà Nguyễn mất ngôi năm 1945. Phải chăng một dân tộc cũng có vận mệnh? Theo những câu 2-4, phải chăng “cáo” phải được lên ngôi “vua giả” để đưa đất nước vào hoàn cảnh Xuân Thu? Những câu 11-16 cho thấy tuy một quốc gia được lập nên ở miền Nam sau khi người Pháp thua năm 1954, phải chăng quốc gia ấy phải sụp đổ để dân Việt trở nên khôn ngoan hơn? Những câu 17-20 cho thấy tuy đã chịu đau khổ quá nhiều trong mấy chục năm qua, phải chăng dân tộc Việt vẫn còn phải cố gắng thêm một lần nữa, không được xuôi tay, nếu muốn có một tương lai tốt đẹp hơn?

 Những sự kiện đã xảy ra có thể là do “nghiệp” hay “cộng nghiệp.” Tuy nhiên, người thường dân Việt Nam vẫn tin, “Đất có tuần, dân có vận.” Vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi cũng từng viết, ”Nhật nguyệt hối rồi lại minh.” Thiết nghĩ một dân tộc từng có những tiền nhân anh kiệt như Trưng Nữ Vương, Triệu Lệ Hải Bà Vương, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Huệ …, những tiền bối anh linh như Hưng Đạo đại vương, Liễu Hạnh công chúa … chắc không chịu kém hèn, tủi nhục quá lâu. Xin dè dặt trình bày cách hiểu bài thơ này của chúng tôi tới các bậc thức giả.

Trần Từ Mai

(Tháng 3 năm 2014)

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"