Phạm Chí Dũng      
 
Dân biểu Ed Royce - Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện. AFP photo 
Năm 2014, người Mỹ đối ngoại kiên định hơn so với thái độ không mấy 
bền vững vào những năm trước. Ngay sau khi đệ trình Dự luật Chế tài nhân
 quyền Việt Nam với số hiệu HR. 4254 ra Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 
14/3/2014, dân biểu Ed Royce - Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện - bắt 
đầu một cuộc vận động không thể nói là vô vọng cho dự luật này. Thậm 
chí, thông tin bên lề còn cho biết xác suất để Hạ viện Hoa Kỳ thông qua 
HR. 4254 là rất cao.
 HR. 1897: Nước “triệt buộc” đầu tiên
 “Lộ trình Miến Điện” đang tái hiện những nút thắt cùng uy lực bọc 
đồng lẫn bọc đường của nó: từ lên án vi phạm nhân quyền đến chế tài 
những chủ thể sinh đẻ các vi phạm đó. Những tin tức lạnh lùng cho biết 
vào năm 2011, Mỹ và phương Tây đã phải tiến hành chế tài về nhập cảnh và
 phong tỏa tài sản đến 5.000 nhân vật chính khách, quân đội và công an ở
 Miến Điện - một liều thuốc đặc trị cho căn bệnh đàn áp dân chúng và đối
 lập thật khó có thuốc chữa tại quốc gia đã từng dìm trong bể máu cuộc 
“cách mạng áo cà sa”.
 Trên bàn cờ tương quan chính trị Mỹ - Việt hơn hai năm sau, thế 
“triệt buộc” đầu tiên thuộc về Dự luật nhân quyền Việt Nam - mang mã số 
HR. 1897, được Hạ nghị viện Hoa Kỳ thông qua vào đầu tháng 8/2013 với tỷ
 lệ phiếu hoàn toàn áp đảo.
 Điều có vẻ trái khoáy là HR. 1897 lại là khế ước đầu tiên hướng đến 
việc thực hiện “cơ chế hợp tác đối tác toàn diện” mà Chủ tịch nước 
Trương Tấn Sang đã đạt được qua cuộc gặp quá ngắn ngủi vào cuối tháng 
7/2013 với người đồng nhiệm ở bên kia bán cầu là Barak Obama.
 Vào thời điểm đó và chỉ mới 3 tháng sau cuộc đối thoại nhân quyền 
Việt - Mỹ được âm thầm nối lại tại Hà Nội, tình hình nhân quyền ở Việt 
Nam vẫn tiến triển đến mức chính quyền cho bắt một hơi ba blogger - 
những người chỉ thể hiện khẩu khí chống lại sự can thiệp của Trung Quốc 
và hành động mạo muội “xếp hạng lãnh đạo”. Cũng vào giữa năm 2013, hội 
nghị trung ương 7 của đảng cầm quyền đã không giải quyết được một vấn đề
 kinh tế - xã hội thực chất nào, ngoài việc bổ sung hai ủy viên Bộ chính
 trị mà từ đó đã sinh ra vô số dư luận về câu chuyện kèn cựa phe phái. 
Và ngay cả xu hướng mang tính phe nhóm “ngả về phương Tây” cũng chỉ mới 
chập chững…
 Ngay lập tức, câu trả lời đến từ Washington vào tháng 7/2013: không 
mấy quan tâm và có thể chẳng cần đến sự diễn giải của phái đoàn ông Sang
 về điều được xem là “Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con 
người”, người Mỹ hẳn chưa nhận ra hiện thực được gọi là “thành tâm chính
 trị” thể hiện rõ nét trong Bộ chính trị Việt Nam và các cấp thừa hành 
địa phương, và do vậy Washington tự cho mình quyền đẩy Hà Nội vào tình 
thế đánh đố nhiều hơn là gợi mở.
 Với sự chất vấn đầy trắc trở của cái tương lai như thế, một thất 
vọng được lượng hóa rõ nhất là phái đoàn Việt Nam đã không thể có cơ hội
 tiếp cận bằng chính xúc giác của họ trong chuyến đi Washington. Từ TPP 
đến “đối tác chiến lược” và vũ khí sát thương, tất cả đều không hé lộ 
một triển vọng nhanh chóng nào. Thậm chí cho tới nay, tất cả vẫn còn nằm
 trên giấy theo đúng tinh thần bản “ghi nhớ” giữa hai nguyên thủ quốc 
gia. Cũng hơn hai chục vòng đàm phán đã trôi vào dĩ vãng nhưng vẫn chưa 
làm cho giới quan chức và các nhóm lợi ích ở Hà Nội ngộ ra một quy trình
 kết thúc có hậu nào của TPP ở thì hiện tại.
 Cú đồng thuận gần như tuyệt đối của Hạ viện Mỹ đối với Dự luật nhân 
quyền Việt Nam chỉ ít ngày sau cuộc gặp Obama - Sang và trước thời hạn 
quy định hẳn mới chỉ là lời đánh đố mở màn. Hà Nội cần và ngay lập tức 
phải hiểu rằng họ đang ở vào năm 2013 chứ không còn là năm 2006 - thời 
điểm mà Nhà nước Việt Nam được “giải thoát” khỏi danh sách các quốc gia 
cần quan tâm đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo (CPC), để chuẩn bị cho 
cuộc tiến chiếm bàn tiệc WTO với tư cách là thành viên thứ 150.
 Nhưng bản thân Hoa Kỳ cũng cần được giải thoát khỏi những tín điều 
cố hữu và kém thực tế. Bài học cốt tủy mà người Mỹ có lẽ đã không ít lần
 xào lại là kể từ khi không còn nằm trong danh sách CPC vào năm 2006, 
tình hình nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại trở nên “tự do” đến mức 
mà giới quan sát phương Tây phải yêu cầu chính quyền Mỹ đóng luôn cánh 
cửa quan hệ với Hà Nội.
 “Triệt buộc” thứ hai mang tên “HR. 4254”
 
Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Phú Trọng, đến Vatican gặp Đức Giáo hoàng Benedict XVI hôm 22/1/2013. AFP photo
Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Phú Trọng, đến Vatican gặp Đức Giáo hoàng Benedict XVI hôm 22/1/2013. AFP photo
Áp đặt những biện pháp trừng phạt đối với những quan chức chính 
phủ Việt Nam “đồng lõa trong những vụ vi phạm nhân quyền nhắm vào người 
dân Việt Nam” là tinh thần sắt son trong bản Dự luật Chế tài nhân quyền 
Việt Nam mà những nghị sĩ cứng rắn như Ed Royce đang tiếp bước “Lộ trình
 Miến Điện”.
 Theo thông cáo của dân biểu Ed Royce, HR. 4254 là một dự luật lưỡng 
đảng, nhắm mục tiêu vào những quan chức chính phủ, công an và những 
người khác vi phạm nhân quyền đối với những nhà bất đồng chính kiến ôn 
hòa. Những biện pháp được kiến nghị bao gồm những hạn chế du hành và 
trừng phạt về tài chính.
 Cụ thể, những cá nhân có tên trong danh sách sẽ không được nhập cảnh
 hay quá cảnh ở Hoa Kỳ, không được cấp bất kỳ quy chế di trú hợp pháp 
nào, và cũng không được phép nộp đơn hay thỉnh nguyện liên quan đến 
những việc này. Về mặt tài chính, những cá nhân này sẽ bị phong tỏa tài 
sản, bị hạn chế hoặc bị cấm giao dịch tài chính và đưa tài sản vào hay 
ra khỏi Hoa Kỳ.
 Thực ra dự thảo đầu tiên của HR. 4254 đã xuất hiện trong Quốc hội 
Hoa Kỳ cách đây đúng một năm, vào tháng 3/2013, tức hai tháng sau chuyến
 “hành hương” của người đứng đầu đảng Nguyễn Phú Trọng đến Vatican. Khi 
đó và trong bầu không khí bị xem là “thụt lùi sâu sắc” về nhân quyền, 
các nghị sĩ Mỹ đã yêu cầu:
 “Tổng thống sẽ đóng băng và cấm chỉ tất cả các giao dịch liên 
quan đến tất cả các tài sản và lợi ích của một cá nhân trong danh sách 
được quy định ở điểm (c)(1) nếu những tài sản và lợi tức đó nằm ở Hoa 
Kỳ, rơi vào Hoa Kỳ, hoặc nằm ở hoặc rơi vào quyền sở hữu hoặc kiểm soát 
của một người Mỹ”.
 Và “Sau không quá 90 ngày từ ngày ban hành Đạo luật này, Tổng 
thống sẽ đệ trình lên những Ủy ban quốc hội thích hợp danh sách của các 
cá nhân, là công dân Việt Nam, mà Tổng thống xác định là dính líu đến 
những vụ vi phạm nhân quyền chống lại nhân dân Việt Nam hoặc thân nhân 
của họ, bất kể việc những vụ vi phạm đó có xảy ra ở Việt Nam hay không… 
Danh sách được quy định trong đoạn (1) sẽ được công khai cho công chúng 
và được đăng trên các trang web của Bộ Ngân khố và Bộ Ngoại giao”.
 Không phải và chẳng bao giờ tự do là món quà trên trời rơi xuống. 
Cũng không hẳn chuyện đổ tiền sẽ làm nguội lạnh những cái đầu tham lam 
lẫn sắt máu. Dĩ nhiên Miến Điện được như ngày nay là nhờ cú đi roi song 
hành với tiến trình xóa nợ quốc gia.
 Luật chơi của người Mỹ
 Sau 39 năm từ thời điểm 1975, giai cấp cầm quyền ở Việt Nam đã lập 
kỷ lục về nợ công quốc gia: ít nhất 95% GDP, nếu không nói là còn hơn 
thế. Con số này là một trời một vực so với số báo cáo chỉ khoảng 55% GDP
 của Chính phủ. Mỗi đầu nông dân phải gánh đến ít nhất 1.500 USD tiền 
nợ, trong lúc vai và lưng họ đã oằn tím bởi hàng trăm thứ thuế cùng thói
 vô cảm của các “đày tớ”.
 Nhưng vấn đề trầm trọng hơn nhiều là trong một xã hội có đến ít nhất
 20% dân số lâm vào tình cảnh nghèo khổ - gấp 3 lần số báo cáo, nền kinh
 tế rơi vào cảnh suy sụp và thảm hại đến mức “không biết lấy tiền đâu để
 trả nợ nước ngoài” - như trần tình hiếm hoi của một quan chức nhà nước.
 Với đà như thế này, tình thế quá nan y chắc chắn sẽ đẩy đất nước đến hố
 bĩ cực, và sẽ chẳng hề kinh ngạc nếu nó dẫn đến vô số cơn động loạn xã 
hội khiến cho chân đứng chính thể có thể vụn vỡ vào bất cứ thời điểm 
nào.
 Phải chăng đó là thế “tự triệt buộc” của giới lãnh đạo đương thời Việt Nam kéo theo các tầng lớp dân chúng khốn khổ của họ?
 Còn với người Mỹ, một lần vội vàng là thêm một sai lầm. Giờ đây, 
dường như cách chơi bài của người Mỹ là kiểu cách với điếu xì gà trên 
miệng cùng những vòng khói tỏa ra từ lỗ mũi thâm sâu của người Trung 
Hoa. Bầu không khí ấy có vẻ không hứa hẹn một viễn cảnh được phác ra sớm
 sủa, mà có lẽ sẽ kéo dài theo một quy luật được sàng lọc từ dĩ vãng: độ
 mở của Washington tùy thuộc vào thái độ bớt khép kín của Hà Nội.
 Thời gian đầu tiên của năm 2014 đang chứng kiến thái độ kiên định 
hơn của không chỉ khối nghị sĩ đảng Cộng hòa. Ngay cả Tổng thống Obama 
và ngoại trưởng của ông cũng chợt mạnh mẽ hẳn lên đối với bản Phúc trình
 nhân quyền Việt Nam năm 2013 và những điều kiện đặt lên bàn đàm phán 
TPP.
 Cũng bất chấp mối đe dọa có thể xảy ra cuộc chiến tranh lạnh lần thứ
 hai, lần đầu tiên chính quyền Obama dám áp đặt lệnh trừng phạt đối với 
các quan chức Nga và Ukraine. Ngay sau đó, cơ quan công tố Thụy Sĩ đã 
làm việc hết sức khẩn trương: hàng loạt ngân hàng ở quốc gia này, nơi 
cất giấy tài sản của thế giới quan chức đen đúa, đang bị bóc trần từng 
mảng lớn.
 Lẽ nào tương lai của “một bộ phận không nhỏ” giới quan chức, công an
 Việt Nam cùng vợ con họ, những người đã có đủ thời gian để khiến Tổ 
quốc bị loang máu ngoại tệ sang tận Úc, Mỹ, Anh, Canada hay các nước Bắc
 Âu, những người nồng nàn tình yêu Tổ quốc đến mức sẵn sàng nhảy lên máy
 bay ra ngoại quốc vào bất kỳ thời điểm nào xảy ra “biến cố”, cũng tự 
khép mình vào thế “triệt buộc” mất trắng tổ quốc như triều đại vừa lâm 
chung ở Ukraine?
 Phạm Chí Dũng, TP.HCM 27-03-2014
 
