Huy Đức      
Sau một quyết định luân chuyển, 44 vụ trưởng, thứ trưởng... bỗng 
trở thành phó tỉnh [1]. Nhiều người trong đó sau Đại hội sẽ lại ra Hà 
Nội làm Bộ trưởng, vào Trung ương. "Luân chuyển cán bộ" là một giải pháp
 được Hội nghị Trung ương Ba, khóa VIII (6-1997), đặt ra. Nhưng phải tới
 Hội nghị Trung ương Sáu (lần 2), khóa VIII (1998), mới bắt đầu được 
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu áp dụng.
Chỗ Trống
Nếu những nỗ lực đưa tuổi về hưu lên 65 không thành công, Đại hội sắp
 tới hứa hẹn sẽ có rất nhiều "chỗ trống". Tuổi để không "tái ứng cử" của
 ủy viên Trung ương hiện là 60, tức là những người sinh từ năm 1956 trở 
về trước sẽ phải ra đi. Có tới 81/154 ủy viên trung ương (không tính Ban
 bí thư, Bộ chính trị) có năm sinh từ 1951-1956. Trong số này có 11 bộ 
trưởng, 15 bí thư tỉnh ủy và hai vị chủ tịch 2 thành phố Hà Nội, Sài 
Gòn.
Hy vọng không phải hoàn toàn tắt hết cho 15 vị ủy viên Trung ương 
sinh năm 1956. Nhưng cũng phải nhớ là ở Đại hội XI chỉ có 4 vị sinh năm 
1951 (tương đương 1956 ở đại hội XII) lọt vào Trung ương: Phó chủ tịch 
Nước Nguyễn Thị Doan, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn, Ủy viên 
Thường vụ Quốc hội Đào Trọng Thi, Bộ trưởng Giàng Seo Phử. Năm 2011, 
cũng có ba vị bộ trưởng khác "cố đấm" nhưng không "ăn được xôi": Lê Doãn
 Hợp (1951), Trần Đình Đàn (1951), Phạm Khôi Nguyên (1950).
Tuổi về hưu của ủy viên Bộ chính trị là 65. Có ít nhất 4 ủy viên Bộ 
chính trị chắc chắn sẽ bị vấn đề tuổi tác loại ra khỏi danh sách nhân sự
 Đại hội 12: Nguyễn Phú Trọng (1944), Nguyễn Sinh Hùng (1946), Ngô Văn 
Dụ và Tô Huy Rứa (cùng sinh năm 1947). Cũng có không nhiều cơ hội cho: 
Lê Hồng Anh (12-11-1949), Phùng Quang Thanh (2-2-1949), Phạm Quang Nghị 
(2-9-1949) và Lê Thanh Hải (20-2-1950).
Hai ủy viên Bộ chính trị, Phạm Gia Khiêm (6-8-1944) và Hồ Đức Việt 
(13-8-1947) đã bị đánh rớt tại Đại hội XI. Chỉ có một tiền lệ là trường 
hợp của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, ông được tái cử để đưa lên ghế 
Chủ tịch Quốc hội khi chỉ còn vài ngày là 65 tuổi (18-1-1946). 
Quy định tuổi tác và giới hạn hai nhiệm kỳ cũng có tác dụng tích cực 
trong một nền chính trị cả nể như Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng từng làm 
Thủ tướng từ năm 1955 đến 1987. Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều 
giữ chức cho đến "hơi thở cuối cùng". Trước Đại hội VIII, Đỗ Mười đã 79 
tuổi nhưng vẫn còn "bám trụ".
Bộ Tứ
Từ sau Đại hội IX, tuổi không tái ứng cử của "bộ tứ" được quy định là
 67. Đại hội XI diễn ra vào tháng Giêng 2011, khi Chủ tịch Quốc hội 
Nguyễn Phú Trọng vẫn còn 3 tháng... để trở thành Tổng bí thư (ông Trọng 
sinh ngày 14-4-1944).
Nếu Đại hội XII tổ chức vào đầu năm 2016, Ông Trương Tấn Sang có thể 
chạm vào giới hạn tuổi tác (ông sinh ngày 21-1-1949) nhưng lại có lợi 
thế là mới giữ chức Chủ tịch Nước một nhiệm kỳ. Ông Nguyễn Tấn Dũng đang
 còn mấy tháng tuổi (ông sinh 17-11-1949) nhưng chỉ có một con đường "đi
 lên" vì đã có hai nhiệm kỳ Thủ tướng [2].
Rất nhiều "hồng y" muốn trở thành "giáo hoàng" nhưng ai cũng phải giữ
 bề ngoài đạo mạo. Ai cũng cần người thay họ nói ra "tham vọng" đó (bằng
 cách đề cử trong những hội nghị trung ương cuối nhiệm kỳ). Trước Đại 
hội XI, cho dù uy tín của Nông Đức Mạnh thế nào, lời giới thiệu người kế
 vị của ông vẫn vô cùng quan trọng. Năm 2011, nếu không được Nông Đức 
Mạnh giới thiệu, Nguyễn Phú Trọng có thể chỉ là một ông già 67 tuổi về 
hưu.
Đề cử người kế vị của ông Nguyễn Phú Trọng chắc chắn vẫn có trọng 
lượng nhưng cách vận hành Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương giờ 
đây đã phức tạp hơn. Nó chịu chi phối rất nhiều của vấn đề "thế - lực".
Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên dự khuyết từ tháng 12-1986. Trong khi 
tháng 1-1994 Nguyễn Phú Trọng mới được đặc cách vào Trung ương. Tuy vào 
Bộ chính trị gần như trong cùng một thời gian, mãi tới năm 2006 Trương 
Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng mới có một ví trí có quyền lực ở tầm quốc 
gia. Trong khi từ năm 1996, Nguyễn Tấn Dũng đã được đưa vào nhóm năm 
người quyền lực nhất (Thường vụ Bộ chính trị) và lần lượt giữ những chức
 vụ mà các quyết định có thể "quy ra thóc", chi phối tới mọi ngóc ngách 
của hệ thống chính trị: Phó thủ tướng thường trực (1997); Thủ tướng 
(2006).
Người thắng cuộc là người có nhiều phiếu hơn. Người có nhiều phiếu 
hơn không hẳn vì uy tín lớn hơn mà còn có thể là người có nhiều "gót 
chân A-Sin" để sau khi bầu lên "đàn em" dễ dàng trục lợi.
Thành phần bỏ phiếu trong Đại hội không bị chi phối một cách trực 
tiếp bởi nguyên tắc lợi ích như trong Bộ chính trị, Trung ương, nhưng 
đại biểu lại thường là những người "phục tùng". Cho dù xác suất rất 
thấp, Đại hội vẫn có thể tạo ra bất ngờ nếu như các đại biểu hiểu là lá 
phiếu của họ có thể chỉ tập trung đặc quyền, đặc lợi cho một số người 
nhân danh "tập trung dân chủ".
Tại Sao Luân Chuyển
"Luân chuyển", theo Nghị quyết Trung ương Ba, là để "giúp cán bộ trẻ 
có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn". 
Nhưng, tại sao một ông phó chánh án Toà án Nhân dân Tối cao lại phải 
"rèn luyện" bằng cách về tỉnh làm phó bí thư; một ông Viện trưởng Viện 
Nghiên cứu Châu Phi lại phải cần "thực tiễn" ở ủy ban nhân dân một 
tỉnh..
Ban Tổ chức Trung ương có bao giờ hỏi ông Nguyễn Văn Giàu, hai năm 
cách ly với chuyên môn ở Ninh Thuận (2004-2006) có giúp được gì cho ông 
khi làm Thống đốc. Bí thư tỉnh ủy là một nhà chính trị địa phương trong 
khi Thống đốc ngân hàng làm công việc của một nhà kỹ trị. Ban Tổ chức 
cũng có bao giờ hỏi ông Nguyễn Hòa Bình (luân chuyển về Quảng Ngãi 
2010-2011), kinh nghiệm làm Bí thư có giúp gì để một ông tướng công an 
trở thành Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đứng đầu "viện 
công tố" mà học được cái lắt léo của "chính trị gia" thì liệu có còn 
"độc lập, chỉ tuân theo pháp luật".
Cũng có những cán bộ được quy hoạch để làm chính trị khi về địa 
phương, bị đặt trước thách thức phải tự "tìm chỗ trống có cơ cấu" như 
Thứ trưởng Trần Thế Ngọc (trước đương kim Bí thư Trần Thị Kim Cúc ở Tiền
 Giang hồi năm 2010); Phải phản công tự vệ như phó ban Tư tưởng Văn hóa 
Phạm Quang Nghị khi về làm Bí thư Hà Nam (1997-2001). "Đấu đá nội bộ" 
cũng có tác dụng trui rèn bản lĩnh nhưng không phải là con đường nhất 
định để trở thành chính trị gia.
Không thể coi luân chuyển là "thử thách" khi đó chỉ là quy trình một 
cán bộ được Ban bí thư xếp sẵn ghế rồi "ẵm" về địa phương. Chỉ có rất ít
 trường hợp thất bại như Vũ Trọng Kim (Quảng Trị 2001-2005). Luân chuyển
 chỉ là cơ hội để các bên cài đặt nhân sự của mình vào những vị trí có 
cơ cấu. Cả khách lẫn chủ đều biết chịu đựng nhau. Xuôi chèo mát mái thì 
đến hẹn họ mới đi cho. Đó là thời gian "nín thở qua sông" chứ không phải
 là "rèn luyện".
Cho dù Đảng kiểm soát tuyệt đối về công tác cán bộ nhưng không có 
nghĩa là cán bộ của Đảng thì có thể ngồi bất cứ chỗ nào. Có những bí thư
 tỉnh ủy có thể làm bộ trưởng. Nhưng không có nghĩa ai có "hàm bộ 
trưởng" là có thể phiên ngang. Chính trị địa phương không giống như 
chính trị quốc gia và điều quan trọng hơn, viên chức hành chánh, viên 
chức chính trị và chính khách là những vị trí không thể luân qua, chuyển
 lại.
Hành Chánh Chuyên Nghiệp
Cho dù độc đảng hay đa đảng một quốc gia muốn ổn định đều cần phải 
thiết lập được một nền hành chánh công vụ chuyên nghiệp và độc lập. Các 
viên chức hành chánh, nếu muốn vẫn có thể "học tập đạo đức Hồ Chí Minh" 
và chính trị Marx - Lenin, nhưng điều họ bắt buộc phải học là chỉ được 
làm những gì pháp luật cho làm, tuân thủ các chuẩn mực hành chánh một 
cách chính xác và không cần sáng kiến.
Bộ máy hành chánh có thể hình thành từ trong các bộ, ngành, từ tỉnh, 
quận, huyện và phường xã. Đứng đầu các bộ máy hành chánh ở tất cả các cơ
 quan này là những người được đào tạo trong trường hành chánh. Họ là các
 chủ sự, các đốc sự và tham sự hành chánh. Họ có thể có hàm tương đương 
với thứ trưởng, phó tỉnh trưởng hay phó quận trưởng...
Các bộ trưởng, tỉnh trưởng có thể bị thay thế sau mỗi nhiệm kỳ, nhưng
 người đứng đầu bộ máy hành chánh thì chuyên nghiệp. Khi nào có bộ 
trưởng, tỉnh trưởng mới tới, họ lại giúp tập huấn để các chính trị gia 
biết giới hạn, thủ tục khi ứng xử các quyền hành chánh.
Viên chức hành chánh là một "ngạch" có thể chọn qua thi tuyển.
Viên chức chính trị bổ nhiệm (political appointee)
Đây là một lực lượng hết sức hùng hậu, trung ương có các bộ trưởng, 
các thẩm phán (bao gồm cả chánh án), công tố viên (kiểm sát viên - bao 
gồm cả viện trưởng viên kiểm sát)...; địa phương có các giám đốc sở... 
Họ được bổ nhiệm bởi những chính trị gia được quốc hội hoặc các cuộc 
tổng tuyển cử bầu lên như thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch tỉnh... và 
thường phải được phê chuẩn của quốc hội hay hội đồng nhân dân các cấp.
Quyền lựa chọn nhân sự cho các vị trí này thuộc về các chính trị gia.
 Nếu họ đưa "em út" hay đưa những kẻ "chạy chức, chạy quyền" vào thì có 
thể sẽ bị phát hiện trong quá trình điều trần. Nếu người mà họ bổ nhiệm 
không được phê chuẩn thì họ sẽ rất có thể mất uy tín, phải từ chức hoặc 
chịu thất cử trong nhiệm kỳ kế tiếp.
Tuy quyền lựa chọn là của cá nhân nhưng để có sự hậu thuẫn chính trị 
các chính trị gia buộc phải lựa chọn nhân sự từ nhiều nguồn khác nhau. 
Thay vì dựa vào "kho dự trữ cán bộ" của Bộ chính trị, Ban bí thư, Thủ 
tướng sẽ lựa chọn các bộ trưởng trong hàng các chính trị gia hoặc trong 
các nhà kỹ trị, các nhà văn hóa lớn; Chủ tịch nước sẽ chọn các thẩm phán
 không phải từ những người được quy hoạch mà có thể từ các luật sư nổi 
tiếng, giỏi nghề nghiệp và liêm chính.
Chính Trị Gia
Công tác cán bộ như hiện nay không thể làm xuất hiện chính trị gia 
cho dù vẫn có những chức danh được đặt vào thông qua bầu cử. Chính trị 
gia thực thụ phải là những người trưởng thành từ các hoạt động chính 
trị, xã hội... được công chúng biết đến và chọn lựa.
Không phải tự nhiên, cho dù có học vấn cao hơn, phẩm chất chính trị 
gia của lãnh đạo càng ngày càng tụt xuống. Trước đây, các lãnh đạo địa 
phương được điều ra Trung ương thường nhờ thành tích "đổi mới" (như Võ 
Văn Kiệt, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn Chính - Chín Cần...). Ngày nay, 
không ai biết thành tích ở địa phương của các bí thư tỉnh ủy được đưa 
lên là gì. Không có môi trường chính trị để những người trở thành lãnh 
đạo thực sự cao hơn các đồng chí của họ "một cái đầu", các nhà lãnh đạo 
đã chọn những kẻ kém mình "một cái đầu" cho dễ bảo.
Hiện tượng xuất hiện các nhà lãnh đạo dưới 40 tuổi có học vấn cao, 
được đào tạo ở Mỹ, ở Canada như Nguyễn Thanh Nghị (phó bí thư Kiên 
Giang), Nguyễn Xuân Anh (phó bí thư Đà Nẵng) lẽ ra phải được coi là tích
 cực. Nhưng họ lại đang trở thành đối tượng để dư luận "xì xào". Vấn đề 
là tại sao lại chỉ có hai vị ấy mà không phải là những người xuất sắc 
khác trong số hàng chục ngàn bạn trẻ vừa du học trở về.
Nếu không có một môi trường chính trị minh bạch thì những người tử tế
 rất khó có chỗ đứng trong giới cầm quyền. Nếu không có một môi trường 
tranh cử công khai thì người tài không thể xuất hiện và được thử thách. 
Nếu đội ngũ kế cận chỉ gồm những người được cha chú "lôi từ trong túi áo
 ra" thì cho dù họ lên tới cấp nào cũng chỉ có thể hành xử như hàng 
thuộc hạ.
[1] Trong 44 cán bộ được luân chuyển đợt này, có 2 ủy viên dự khuyết 
Trung ương, 19 thứ trưởng và tương đương; 25 cục trưởng, vụ trưởng và 
tương đương; 3 cán bộ nữ. Theo Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, 
25 người giữ chức Phó Bí thư tỉnh ủy, thành ủy; 19 người giữ chức Phó 
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố.
[2] Theo Nghị quyết Trung ương Ba, Khóa VIII: “Cán bộ đứng đầu từ cấp
 huyện, quận trở lên không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ”.
 
