Trần Kinh Nghị      
 
Động lực sống của con người là lòng tin. Nó có thể là niềm tin vào 
thánh thần hay một lý tưởng chính trị, hoặc tin vào chính bản thân mình,
 hoặc đôi khi chỉ là sự ngưỡng mộ đối với một thần tượng, v.v... Niềm 
tin quan trọng hơn nội dung của nó, hay nói cách khác, sự đúng sai của 
điều mà người ta tin vào đôi khi không quan trọng bằng những gì dẫn dắt 
người ta đến với nó. 
  Niềm tin có thể rất cụ thể, cũng có thể rất mơ hồ trừu tượng, nhưng
 dù ở dạng nào, nó đều có vai trò như một cái phao cứu sinh đối với con 
người bé nhỏ bất lực trong vũ trụ bao la vô định. Lòng tin cũng là lẽ 
sống nên thường khi người ta không có hoặc bị mất niềm tin, tâm hồn sẽ 
trở nên trống rỗng, sức lực suy sụp và cuộc đời vô nghĩa.
Đó chính là lý do tại sao các loại tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau 
hình thành và phát triển trên thế giới từ thời thượng cổ đến nay. Và đó 
cũng là nguyên nhân tại sao các tôn giáo, tín ngưỡng dù khác nhau, thậm 
chí trái ngược, xung khắc lẫn nhau, nhưng vẫn cùng tồn tại trong xã hội 
loài người. Và dù muốn hay không, tín ngưỡng là một nhân tố sống còn đối
 với con người, đồng thời cũng rất dễ bị lợi dụng bởi những thế lực hắc 
ám chuyên nghề buôn thần bán thánh. 
Lòng tin không chỉ quan trọng đối với cá nhân mà còn quan trọng đối 
với cộng đồng và quốc gia. Mỗi quốc gia cần có sự cố kết trên cơ sở lòng
 tin do chính công dân của quốc gia đó lựa chọn một cách không gượng ép 
cũng không mù quáng; nếu vì một lý do nào đó dẫn đến sự lựa chọn mù 
quáng thì đó là sự mê tín tai hại. Có thể nói, lòng tin đóng vai trò 
quyết định đối với sự sống còn của một quốc gia. Nơi nào và khi nào 
không có lòng tin hoặc lòng tin lung lay suy yếu, nơi đó sẽ trở nên xung
 yếu và dễ rơi vào khủng hoảng, thậm chí tan rã. 
Việt Nam là một trong những quốc gia dân tộc có nhiều điều kiện thuận
 lợi để xây dựng lòng tin nhờ có tư tưởng phật giáo cùng với đạo lý hòa 
hiếu và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã ăn sâu bám rễ hàng ngàn năm. Tuy 
vậy, đất nước này cũng không tránh khỏi những chu kỳ thăng trầm khi lòng
 tin của dân chúng bị đánh mất và vận nước lâm nguy dẫn đến muôn nỗi bi 
ai như đã thấy trong lịch sử dân tộc. Giờ đây phải chăng một chu kỳ như 
vậy sắp tái diễn? Đây không chỉ là câu hỏi mà còn là một lời cảnh báo 
nếu xem xét bối cảnh tình hình chính trị-kinh tế-xã hội của đất nước 
trong mối tương quan khu vực và quốc tế ngày nay. 
Thực tế mấy chục năm nay cho thấy có tình trạng người dân từ chỗ chỉ 
biết tin vào một hướng là sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sang chỗ hoài
 nghi hoặc không biết tin vào đâu. Đây không phải là một ý kiến suy diễn
 mà đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và được bàn luận công 
khai trong xã hội. Chỉ có điều, nguyên nhân và giải pháp thì còn nhiều ý
 kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Còn nhớ, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, đại đa số nhân 
dân từ Nam chí Bắc và cả số kiều bào còn ít ỏi lúc bấy giờ đều tin vào 
sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tin đến nỗi nhiều người đã từ bỏ cả tín 
ngưỡng của họ để đi theo lý tưởng cộng sản. Và có thời kỳ lòng tin đó đã
 từng có sức lan tỏa và cuốn hút mạnh mẽ như một tín ngưỡng vậy. Tuy 
nhiên, lòng tin như vậy đã bắt đầu có dấu hiệu lung lay kể từ sau ngày 
thắng lợi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước tháng Tư năm 1975. 
Dấu hiệu đầu tiên là sự rời bỏ tổ quốc ra đi của hàng triệu con người 
không chỉ "người của chế độ cũ" mà cả các doanh nhân và dân thường. Và 
sự ra đi vẫn tiếp diễn cho đến nay, chỉ khác ở nhịp độ và cách thức lặng
 lẽ hơn và thành phần chủ yếu là người lao động, doanh nhân, học sinh 
sinh viên và cả giới văn nghệ sĩ, trí thức cùng một số quan chức đã nghỉ
 hưu hoặc đương chức. Hầu hết các trường hợp ra đi đều có tính toán với 
mục đích lâu dài. Thực chất đó là một dạng "chảy máu chất xám" rất không
 đáng xảy ra đối với đất nước trong giai đoạn cần nhân lực để phát 
triển. 
Sự mất lòng tin còn thể hiện ở trào lưu mê tín dị đoan vốn đã lắng 
xuống trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc nay lại trỗi dậy như 
nấm sau cơn mưa. Nó không chỉ lôi kéo dân thường mà cả cán bộ, quân 
nhân, kể cả đảng viên và cấp lãnh đạo. Nó cho thấy một lẽ thường tình 
thôi, đó là khi con người ta hoang mang thì có xu hướng tin vào những 
khái niệm mơ hồ huyền bí như thánh thần hoặc bất cứ điều bí ẩn nào đó để
 lấp chỗ trống tinh thần đang hụt hẫng của họ. Đó là lý do tại sao ngày 
càng có nhiều người và nhiều hình thức cúng bái cầu tài cầu lộc, cầu cho
 bản thân được hơn người, cầu cho thánh thần trừng trị đối phương, đối 
tác... Để đáp ứng nhu cầu mê tín dị đoan đang tăng lên đột xuất, hàng 
loạt chùa chiền, đền thờ miếu mão mọc lên như nấm trên khắp các vùng 
miền dưới danh nghĩa tôn tạo di tích văn hóa-tâm linh, phục hồi truyền 
thống tín ngưỡng v.v...
Sự mất lòng tin còn thể hiện ở nhiều khía cạnh khác. Đó là sự sa sút 
về đạo đức, lối sống trong quan hệ xã hội cũng như trong ý thức chấp 
hành kỷ cương luật lệ của nhà nước, v.v... Chưa bao giờ người ta có thể 
giết nhau một cách "máu lạnh" chỉ vì một nguyên nhân không đâu hay một 
lợi ích nhỏ nhoi như bây giờ. Không yêu được nhau cũng giết, để cướp vài
 chục nghìn đồng cũng giết, con giết cha, vợ giết chồng, thậm chí bác sĩ
 giết bệnh nhân, v.v...Đó là gì nếu không phải là dấu hiệu của sự suy 
đồi về luân thường đạo lý? Chưa bao giờ tình trạng tham nhũng ngang 
nhiên lan tràn trước sự bất lực của Nhà nước như bây giờ. Chưa bao giờ 
trật tự kỷ cương đường phố làng xã bị đảo lộn và bị vi phạm nghiêm trọng
 như bây giờ. Chưa bao giờ sự vô cảm trở nên như một căn bệnh truyền 
nhiễm nguy hiểm như bây giờ. 
Sự mất lòng tin bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân và yếu tố tâm lý khác 
nhau. Trong số những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, bên trong 
hoặc bên ngoài, thì sự sai lầm về đường lối chủ trương chính sách kinh 
tế-xã hội đóng vai trò chính. Vẫn biết sai lầm là hoàn toàn có thể hiểu 
được, nhưng tiếc rằng sai lầm mà không được kịp thời thừa nhận và rút ra
 bài học khắc phục. Chẳng hạn có những sai lầm phạm phải trong quá trình
 xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như cải tạo công thương nghiệp tư 
bản tư doanh ở thành phố và tập thể hóa ruộng đất ở nông thôn lại tiếp 
tục đem ra áp dụng ở miền Nam; những phương pháp và biện pháp giáo dục 
chính trị tư tưởng khắc khổ lại được tiếp tục áp dụng cho miền Nam, 
v.v... Chúng khiến người dân không được phút ngơi nghỉ để hưởng bầu 
không khí hòa bình độc lập tự do và phải tiếp tục lao vào những cuộc đấu
 tranh,|học tập, cải tạo đến sức cùng lực kiệt. Đồng thời trong lúc đó 
hình ảnh những người cán bộ và anh bộ đội Cụ Hồ một thời lung linh cao 
đẹp đã nhanh chóng biến thành những con người thực dụng tầm thường trước
 mắt bàn dân thiên hạ. 
  Xu hướng tự tư tự lợi thông qua địa vị chức quyền trỗi dậy biến họ 
thành tầng lớp cầm quyền với những khuyết tật vốn có của họ, và bộ máy 
công quyền nhanh chóng phình to quá mức bình thường. Bộ máy hành chính 
bị người dân gọi là "hành dân là chính". Những khẩu hiệu một thời vang 
dội như "lấy dân làm gốc", "do dân, vì dân"...đã bị người dân đem ra đùa
 tếu hàng ngày. Trong lúc người dân không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi thì 
nội bộ giới lãnh đạo ngày càng chia rẽ thành các nhóm lợi ích khác nhau,
 có chăng chỉ còn chung một thứ lập trường của tầng lớp đặc quyền đặc 
lợi; và cái gọi là "lý tưởng cách mạng" bị lợi dụng làm tấm bình phong. 
Sự tùy thuộc lẫn nhau trong xã hội trở nên lỏng lẻo, lòng dân ly tán với
 tâm lý bất tín, bất an, bất phục ngày càng lan rộng trở thành lực cản 
đối với tiến trình phát triển và tiến bộ của đất nước.
  Tâm lý mất lòng tin khiến người ta nghi ngờ tất cả bất luận đó là 
thật hay giả, đúng hay sai; và nó như một hiệu ứng domino khiến tình 
hình ngày càng tồi tệ. Một khi lòng tin trong mỗi người đã mất thì rất 
khó để lấy lại. Nếu trước đây Đảng bảo gì dân nghe theo, thì bây giờ mọi
 sự chỉ đạo đều có thể bị phớt lờ, thậm chí bị xuyên tạc bóp méo. Người 
ta không thể cứ kêu gọi hãy tin ở tôi vì tôi là Đảng nên bao giờ cũng do
 dân, vì dân..., và Đảng bao giờ cũng đúng! 
Nhiều người tin rằng hễ mất lòng tin ắt sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Và họ 
quyết định ngồi đó chờ đợi trong khi những người đương quyền tất nhiên 
phải ra sức trì hoãn và các nhóm lợi ích thì tranh thủ cơ hội "đục nước 
béo cò". Sụp đổ là vạn bất đắc dĩ, nhưng nếu được sụp đổ có khi lại tốt.
 Điều tai hại hơn là tình trạng mất lòng tin cứ thế tiếp diễn kéo dài 
chỉ đủ mức để phá hỏng mọi nỗ lực phát triển quốc gia đồng thời làm tăng
 thêm nguy cơ mất độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trước kẻ thù 
truyền kiếp. Đây chính là vòng luẩn quẩn và cũng là kịch bản đáng sợ 
nhất của đất nước này.
Hà Nội, ngày 27/3/2014
Trần Kinh nghị
 
