Lưu Hà Sĩ Tâm
Phân tích đầy trí tuệ và sắc sảo về quá trình suy thoái tổ chức của Đảng CSVN
Trong dòng chảy của cuộc sống, con người quan tâm nhiều đến các
cơ hội, vì cơ hội đến sẽ tạo tiềm năng gây chuyển biến nhanh (nhiều khi
là đột biến) trong dòng chảy ấy. Tuy vậy, thuật ngữ “cơ hội” được dùng ở
Việt Nam với nhiều sắc thái khác nhau, nhiều khi gây tranh cãi trong
chính trường và cả ở ngoài đời.
Theo tôi, cơ hội là diễn biến của hoàn cảnh với những điều kiện thuận
lợi, mà chủ thể (mỗi người/gia đình/tổ chức/quốc gia/toàn cầu…) cảm
nhận được, rằng có thể thúc đẩy nhanh chóng sự chuyển biến cho việc tạo
ra giá trị (kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, tinh thần…) với chi phí
thấp hơn, và nếu nắm bắt kịp thời để hành động đúng cách thì sẽ đạt
được mục đích mong muốn.
Cuộc sống trôi qua, và chúng ta nhận thức được có những cơ hội tự
nhiên, tự nhiên đến, mà chủ thể không chủ động tạo ra, nhưng cố gắng tận
dụng. Mặt khác, có những cơ hội mà chủ thể đã chủ động để tạo ra vào
thời điểm nào đó trong tương lai, và do đó có thể gọi đó là những cơ hội
chủ động. Khi có cơ hội tự nhiên đến, chủ thể nắm bắt và tận dụng được,
như vậy là may mắn. Còn cơ hội chủ động không đem đến may mắn dễ dàng,
mà đòi hỏi chủ thể phải chủ động tiến hành các hoạt động có chủ đích, có
đầu tư, có nuôi dưỡng,… nên những cơ hội này đến với chủ thể như là
phần thưởng (kết quả) cho quá trình chủ động đó.
Phần tử cơ hội
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của các đảng cộng sản
trên thế giới, một trong các việc vô cùng hệ trọng trong xây dựng Đảng
là tuyệt đối ngăn chặn những “phần tử cơ hội” lọt vào trong hàng ngũ của
Đảng. Đó là những người luôn luôn tìm kiếm và khai thác mọi cơ hội cho
lợi ích của mình, hoặc cho lợi ích của các tổ chức khác ngoài Đảng. Đó
là những người về mặt tư tưởng thì đã, đang và sẽ không học tập để thấm
nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin hoặc nhận thức lại về chủ nghĩa này, không có
đạo đức cách mạng, và do vậy họ dễ dàng trở thành người chống lại Đảng
ngay từ trong nội bộ. Vì lẽ đó, thuật ngữ “phần tử cơ hội” là thuật ngữ
quen dùng của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương độc quyền lãnh đạo đất nước, hiến
định điều đó trong Hiến pháp 1980 với việc ép buộc toàn dân phải chấp
nhận điều đó mà chẳng hề cho dân phúc quyết. Đảng giành lấy việc lãnh
đạo toàn bộ hệ thống chính trị từ thấp đến cao, cũng như mọi tổ chức
khác trong xã hội. Đảng đạt được điều ấy. Nhưng về mặt xây dựng Đảng thì
lại diễn biến trái với mong muốn của Đảng. Đã có hai quá trình diễn ra,
liên quan đến tâm lý và nhu cầu người dân một cách tự nhiên.
Quá trình thứ nhất, theo thời gian, Đảng vấp phải khó khăn ngày càng
lớn, là số người thực sự có nguyện vọng vào Đảng một cách trong sáng
ngày càng giảm. Khắp nơi xuất hiện tình trạng là các chi bộ phải gợi ý
và mời người ta vào Đảng, cho đủ chỉ tiêu hay đạt thành tích về xây dựng
Đảng. Các nguyên tắc khắt khe trong tìm kiếm, bồi dưỡng, kết nạp đảng
viên mới chỉ còn là nội dung trên giấy, mà không thể thực hiện trên thực
tế. “Để cho người ta còn vào”, các đảng viên trong các chi bộ nói thế.
Vậy là, hầu hết thanh niên trong nguồn bồi dưỡng phát triển Đảng, và cả
các đảng viên mới, lảng tránh việc học tập để có những nhận thức cần
thiết về chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ cũng nhận thức được ít nhiều tính viển
vông của chủ nghĩa này, nhưng dại gì nói ra. Họ có nghe đến chuẩn mực
đạo đức cần có của một người cộng sản chân chính (như suốt đời hy sinh
phấn đấu vì lợi ích nhân dân,…), nhưng dại gì noi theo. Quá trình này
cho thấy, ngày càng nhiều đảng viên yếu kém về nhận thức, lý tưởng và
đạo đức, nên một cách tự nhiên, họ là sản phẩm của quá trình hình thành
những phần tử cơ hội đúng nghĩa ngay trong Đảng.
Quá trình thứ hai, cha mẹ ông bà đang nuôi con cháu ăn học phổ thông,
vì muốn con cháu mình không ở vào tình huống bất thường so với bạn bè,
nên động viên chúng vào đội, vào đoàn. Điều này quá dễ vì không phải
phấn đấu, chỉ cần không hư là được. Khi chúng trưởng thành và nhận thấy
chúng có năng lực nhất định, cha mẹ ông bà định hướng cho chúng làm việc
trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước, trong hệ thống quản lý nhà nước
từ làng xã trở lên, trong các tổ chức xã hội khác. Khi cha mẹ ông bà vui
mừng đã xin được việc cho con cháu, lại lo đến tương lai phát triển của
chúng trong môi trường ấy. Lời khuyên cho con cháu theo tinh thần sau
đây đã diễn ra phổ biến trong các gia đình: thôi thì lo mà vào Đảng đi
con ạ, để “người ta” không gây khó cho mình, để “người ta” còn tạo điều
kiện cho học hành, cất nhắc sau này. Những thanh niên ấy, theo lời
khuyên thực tế ấy, đã trở thành đảng viên, chỉ vì bảo vệ và tìm kiếm lợi
ích cho mình. Như vậy, cha mẹ ông bà, chỉ vì nguyện vọng chính đáng là
bảo vệ con cháu, nên vô tình thúc đẩy con cháu trở thành phần tử cơ hội
trong Đảng.
Cả hai quá trình trên, khiến cho Đảng trong hơn ba thập kỷ qua đã trở
thành một tổ chức đầy rẫy những phần tử cơ hội. Một lãnh đạo cao cấp
của Đảng gần đây đã nói rằng “đảng viên nhan nhản, cộng sản mấy người”,
là sự cay đắng thừa nhận thực tế ấy. Hệ lụy này Đảng phải gánh chịu.
Nhưng căn nguyên lại chính do Đảng tự gây ra mà không lường được, do
Đảng buộc toàn dân thừa nhận sự lãnh đạo duy nhất và toàn diện của đảng.
Sự lãnh đạo đất nước như một món hàng độc quyền buộc toàn dân phải mua,
nhưng với giá ngày càng chết người.
Kẻ cơ hội chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng hay dùng thuật ngữ “kẻ cơ hội chính trị”,
để chỉ những người khác chính kiến về mặt tư tưởng, có các hành vi hay
hoạt động trái với lợi ích của Đảng. Đảng muốn nói rằng, những người đó
đang rắp tâm làm mọi việc để tạo nên các cơ hội chủ động về mặt chính
trị, gọi là cơ hội chính trị. Đảng ghép thêm danh từ “kẻ” phía trước,
thành “kẻ cơ hội chính trị”, nhằm nhấn mạnh họ là những kẻ xấu, là những
người không có lý tưởng, nhưng tham gia hoạt động nhằm cải biến chính
trị chỉ vì những lợi ích mang lại cho cá nhân, chứ không phải vì muốn
phục vụ cho lợi ích nhân dân.
Trên thực tế, thuật ngữ “cơ hội chính trị” không phải luôn là xấu như
Đảng đã tuyên truyền. Nếu cơ hội chính trị dẫn đến cải biến kinh tế -
xã hội- văn hóa theo hướng tiến bộ theo chuẩn mực chung của nhân loại,
thì đó lại là tốt. Và những người chủ động tạo ra và nắm bắt các cơ hội
chính trị tốt ấy là những người tốt.
Nhìn lại dòng lịch sử hơn nửa thế kỷ qua, có thể nói đến các cơ hội chính trị lớn đã diễn ra:
– Đảng Cộng sản Việt Nam chủ động tạo cơ hội, nắm bắt và tận dụng cơ
hội chính trị năm 1945, lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền từ tay Nhật
(đã đầu hàng Đồng minh), lực lượng hợp tác với Nhật và triều đình Bảo
Đại, khai sinh nước Việt Nam DCCH. Cơ hội chính trị này là tốt, vì đất
nước được độc lập và Hiến pháp 1946 thể hiện cải biến kinh tế - xã hội -
văn hóa theo hướng tiến bộ so với trước đó. Vì thế, khó có thể gọi các
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm 1945 là những “kẻ cơ hội
chính trị” theo nghĩa xấu.
– Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quân dân, nắm bắt và tận dụng cơ
hội chính trị năm 1975. Đây là cơ hội chính trị tốt, nếu chỉ nhìn nhận
theo mục đích là đi đến thống nhất đất nước. Vào lúc ấy, toàn dân hy
vọng sẽ còn có cải biến kinh tế - xã hội - văn hóa theo hướng tiến bộ
nữa.
– Nhưng rồi xuất hiện những cơ hội chính trị khác, tuy nhỏ hơn nhưng
rất quan trọng, vì là những cơ hội có thể đem đến cho toàn dân sự cải
biến chính trị theo hướng tiến bộ. Đó là các sự kiện dẫn đến ban hành
Hiến pháp 1980, rồi Hiến pháp 1992. Thật thất vọng, các Hiến pháp này
đều thể hiện cải biến kinh tế - xã hội - văn hóa theo hướng phản tiến bộ
mà không cho nhân dân phúc quyết. Đó là các cơ hội chính trị xấu. Hơn
nữa, đã lộ ra ngày càng rõ, là các đảng viên chủ trương và chỉ đạo nuôi
dưỡng, dùng mọi mẹo mực giả trá để tạo ra các cơ hội chính trị xấu như
vậy, nên về bản chất, chính họ mới là những “kẻ cơ hội chính trị” theo
nghĩa xấu. Giờ đây, đầu năm 2013, vẫn những kẻ cơ hội chính trị ấy đang
rắp tâm tạo nên một cơ hội chính trị xấu tiếp theo, với việc sửa đổi
Hiến pháp theo hướng duy trì tình trạng tồi tệ này.
Tất cả những điều nói trên cho thấy, những phần tử cơ hội và những kẻ
cơ hội chính trị hiện nay chủ yếu lại là các đảng viên ngay trong nội
bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy một tổ chức mà chủ yếu gồm các phần tử cơ
hội và kẻ cơ hội chính trị, thì có mong đợi gì kết quả từ việc họ phê
và tự phê.
Tuy thế, người dân không tuyệt vọng. Nhìn tới tương lai, tất yếu sẽ
xuất hiện những cơ hội chính trị tốt thực sự cho nhân dân, với Hiến pháp
tiến bộ, không cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo và áp
đặt tư tưởng đã lỗi thời đối với nhân dân. Tất cả mọi người dân Việt
Nam hiện nay đang có tư tưởng và hành động đấu tranh cho sự nghiệp dân
chủ hóa đất nước, bất kể là sinh sống trong nước hay định cư ở nước
ngoài, bất kể ngoài Đảng hay vẫn còn đang bên trong Đảng, công khai hay
còn chưa công khai, đều xứng đáng là những con dân ưu tú của đất Việt.
Thực tế cho thấy những người dấn thân trên con đường dân chủ hóa đất
nước đã vô cùng dũng cảm, chịu đựng hy sinh rất lớn trước sự đàn áp khốc
liệt của chính quyền. Hầu hết trong số họ phấn đấu cho quá trình cải
biến chính trị vì lợi ích cộng đồng, lợi ích toàn dân, hoàn toàn không
phải vì muốn mang lại lợi ích cá nhân họ. Và các thuật ngữ “phần tử cơ
hội” và “kẻ cơ hội chính trị” thực chất là ngày càng trở nên xa lạ khi
quy kết họ.
Các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang mặc những chiếc áo có
tên gọi như thế, lẽ nào chỉ nhăm nhăm khoác chúng lên người khác?
Thái Bình, 20/1/2003
L. H. S. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN