Được tin Luật sư TRẦN LÂM vừa từ trần ngày 13.11.14 sau một thời gian dài bệnh nặng, Bauxite Việt Nam
vô cùng thương tiếc. Là người tham gia cách mạng từ rất sớm, nhưng cũng
sáng suốt nhìn thấy rất sớm xu thế suy thoái không cưỡng nổi của Đảng
CSVN và tình trạng hung hiểm của đất nước do Đảng cai trị, Ông Trần Lâm
đã kiên trì nuôi ý tưởng tách Đảng thành hai nhằm tạo nên một đột phá để
chấm dứt thể chế độc tài. Biết điều đó không thể trở thành hiện thực
trước một tập thể quan chức Đảng bè phái, ù lỳ, đầu óc chai cứng, khư
khư ôm lấy quyền lợi cá nhân ích kỷ, bỏ mặc đất nước rơi vào suy thoái
ngày càng trầm trọng, Ông dứt khoát ra khỏi Đảng và dấn thân vào hàng
ngũ những người dân chủ, đứng trong tổ chức Đảng Dân chủ của GS Hoàng
Minh Chính khi Đảng này bắt đầu phục hoạt. Và khi GS Hoàng Minh Chính
mất, bài điếu văn nổi tiếng của ông đã gióng lên một hồi chuông để những
ai còn mê muội thấy rõ Việt Nam không còn đường nào khác ngoài con
đường dân chủ hóa đất nước bằng đa nguyên đa đảng. Ông cũng đã từng đến
gặp GS Nguyễn Huệ Chi, thành tâm mời GS kiêm nhiệm chức vị Tổng biên tập
tạp chí Tổ quốc của Đảng Dân chủ, nhưng do bận nhiều việc chuyên môn cũng như đang đảm trách một vai trò trong trang BVN nên GS đã không thể nhận lời.
LS Trần Lâm gặp gỡ GS Nguyễn Huệ Chi ngày 14-8-2010
Luật sư Trần Lâm mất đi là một mất mát lớn cho phong trào dân sự đang ngày một lớn mạnh ở Việt Nam. Bauxite Việt Nam
xin kính cẩn nghiêng mình trước linh cữu Ông, thành kính phân ưu cùng
tang quyến, và cũng xin đăng lại dưới đây một bài viết của TS Nguyễn
Thanh Giang để bạn đọc hiểu thêm về con người kiên cường vắt kiệt những
giọt sức lực cuối cùng cho dân cho nước của nhà dân chủ TRẦN LÂM.
Bauxite Việt Nam
CHIA HAI LÀ NHÂN ĐÔI
Nguyễn Thanh Giang
Luật
sư Trần Lâm (tên thật là Trịnh Đình Trung) sinh ngày 10 tháng 6 năm
1925. Vậy là cụ đã cùng trái đất quay được 85 vòng quanh mặt trời.
Sinh
tại Nho Quan, Ninh Bình, nhưng cụ đã từng tham gia Ban Tuyên huấn tỉnh
bộ Việt Minh Lạng Sơn, làm trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tại Hải
Phòng và Hồng Quảng từ năm 1950-1951 và được bổ nhiệm làm giảng sư chính
trị trung cao cấp chính ngạch từ năm 1962. Vậy là cụ đã từng đi tuyên
truyền huấn luyện chủ nghĩa Mác ở Việt Nam từ rất sớm và là một đảng
viên cộng sản kỳ cựu.
Vậy mà, gần đây người ta thấy cụ cứ tha thiết đòi “phá” Đảng, đòi tách ĐCSVN làm hai.
Sinh
thời, khi bị những người chống “diễn biến hòa bình” quy kết bậy bạ, ông
Trần Đại Sơn đã phản ứng một cách hóm hỉnh: “Nếu chúng tôi không
‘chống’ thì Đảng này đổ lâu rồi”. Chẳng nhẽ các cụ ngụy biện?
Luật sư Trần Lâm thì giải thích:
“Trên
cơ sở tình hình thực tiễn, để tiến lên, sau khi rà soát các hình thức
chỉ còn đọng lại một ý tưởng tha thiết là phải tách ĐCSVN ra làm hai.
Làm như thế thì có thể bề ngoài giữ được ổn định, bề trong thì âm thầm
cải tiến, có thể gạt bỏ dần những quan điểm sai lầm, những lề lối lạc
hậu và có thể phá tan được mối quan hệ nhân sự đồi bại của các liên minh
ma quỷ.
Cho nên cần phải có những biện pháp
phù hợp, vì một ý tưởng dù tốt đến mấy nhưng việc thực thi không đúng
đắn cũng không thể mang lại kết quả mong muốn.
Tách ra không phải bày ra quân xanh quân đỏ, ngày thì tranh cãi, tối thì bàn nhau chia chác.
Tách ra không phải giữ nguyên những con người ăn bám, gánh nặng của toàn dân.
Tách
ra chưa phải mọi sự sẽ suôn sẻ mà chỉ là tạo ra một đột phá chấm dứt
độc đoán toàn trị, tiếp cận dần với dân chủ, công khai.
Từ
tình hình này tạo ra sự sàng lọc, vai trò cá nhân được đề cao, nhân tài
được xuất hiện. Một nền dân chủ phôi thai để dần dần được hoàn thiện.
Tách
ra là một biện pháp một chủ trương táo bạo nhưng giữ được ổn định xã
hội. Luật pháp giữ nguyên, bộ máy giữ nguyên, mọi hoạt động vẫn bình
thường, sự thay đổi sẽ từ từ theo một chiến lược rõ ràng từ toàn trị
sang đa nguyên đa đảng là một sự tiệm tiến lấy nâng cao dân trí làm
gốc”.
Cụ háo hức kỳ vọng:
“Chuyển đổi thành hai Đảng chúng ta được rất nhiều:
Khi
kết nạp lại, bao nhiêu người vì lý do không chính đáng mà vào Đảng, vào
bộ máy Nhà nước sẽ lặng lẽ không xin kết nạp lại. Thế là việc chính của
chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện. Thời cơ vàng để Đảng ta trở nên trong
sạch.
Hai Đảng cùng kết nạp thêm người mới, đó
là sự thay máu làm cho Đảng khỏe khoắn, tươi trẻ, bừng bừng sức sống.
Một việc mười năm không làm được, khoảnh khắc đã làm xong”.
“…
ở đâu cũng có đảng viên của hai Đảng, họ được hướng dẫn để hợp tác cùng
nhau nhưng lại giám sát lẫn nhau, từ đó luật pháp được đề cao, công
bằng được thực hiện, phẩm giá con người được tôn trọng. Lúc ấy nghĩ lại
họ sẽ thấy xấu hổ, không hiểu sao ngày qua họ lập lờ hai mặt, họ gian
trá che đậy, họ khúm núm sợ sệt mà lại hách dịch và vụ lợi.
Trong
không khí đổi mới ấy, người có tài năng, có đạo đức sẽ trở nên khác
xưa. Họ có lòng tin, họ sẽ xin tham gia vào các hoạt động chung. Sức
mạnh của hai Đảng cùng mạnh lên. Đất nước do đó sẽ phồn vinh”.
“Đảng
tách ra làm hai là Đảng vẫn còn, Đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc
quyền chân lý… Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích
thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng
trong cộng đồng quốc tế”.
Đầu đề nghe như nghịch lý của bài viết này chính vì xuất phát từ những kỳ vọng lạc quan trên.
Điều
lý thú là, chính do đã trải nghiệm qua bao nhiêu dằn vặt xót xa, người
đảng viên kỳ cựu của ĐCSVN này nhờ tọa thiền trên những nỗi bi quan cay
đắng đối với Đảng của mình mà quán tưởng được con đường đi tới những kỳ
vọng lạc quan cho Đảng.
Trần Lâm từng trải
nghiệm bao dằn vặt xót xa khi phải kêu lên: “Có người cho rằng không còn
ĐCS, chỉ có Đảng của những người cầm quyền! Họ thuộc giai cấp nào? Họ
thuộc ‘giai cấp cầm quyền’! Họ sở hữu gì? Họ sở hữu quyền lực! Họ sản
xuất kinh doanh gì? Họ kinh doanh quyền lực! Ngành nghề cụ thể? Xoay sở
đất đai, mua bán côta, mở các dự án, chạy tội, chạy việc ! Vốn của họ?
Vốn vô hình, nhưng lãi vô kể!”
Cụ phóng bút như
một họa sĩ: “Đảng ta như một kỵ sỹ mệt mỏi; bộ máy Đảng và Nhà nước thì
như con ngựa bất kham, què quặt. Trong tay kỵ sỹ có bản vẽ chỉ đường
nhưng xem mãi vẫn thấy như không phù hợp với thực địa. Trời thì đã về
chiều, làm sao về đích được trước khi trời tối!”
Viễn
cảnh càng khủng khiếp hơn: “… nay Đảng như một ‘Achile mới’, moi đất ở
dưới chân mình, mỗi ngày một tý, và càng ngày cái hàm ếch càng sâu hơn,
rộng hơn… sự nguy hiểm càng gõ cửa…, dẫu rằng trước đây Đảng đã từng như
Achile, bất khả chiến bại vì bàn chân để trên Đất Mẹ, đó là Nhân dân.”
Lắng
nghe đâu đó từ quảng đại nhân dân, Trần Lâm loan báo: “Có cái gì như
thầm lặng nói lên là Đảng ta tiếp tục cầm quyền là khiên cưỡng; không ai
trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách; toàn Đảng
hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn là những người cầm quyền; bao nhiêu
năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì
nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính…”
“Việc
T4 là việc nội bộ Đảng, vụ Biển Đông là việc quốc tế, tham nhũng là
việc giữa Đảng và dân. Phải chăng một đảng có 3 mối quan hệ sống còn:
Nội bộ Đảng, Đảng và dân, Đảng và quốc tế. Ở các nước, chỉ một việc cũng
làm cho đảng cầm quyền ra đi, ta mắc một lúc cả ba”.
Trần Lâm cho rằng Đảng suy thoái là do lãnh đạo suy thoái và không xứng tầm:
“Các
vị lãnh đạo như của chúng ta, ở Inđônêxia họ gọi là ‘các viên chức
lớn’, thiếu cả những điều kiện của các bậc đi trước, thiếu cả những điều
kiện phù hợp với thời đại hiện nay.
Suy cho
cùng, cũng không phải là thiếu sót của một ai. Đó là những vấn đề của
lịch sử. Tháng 6/2005, ông Hữu Thọ trả lời phóng viên: ‘Trong lịch sử
chúng ta, triều đại nào cũng thế, bao giờ Thái Tổ, Thái Tông cũng tuyệt
vời, nhưng sau Tổ, Tông thì con cháu bắt đầu hư hỏng, ăn mòn vào cái vốn
của ông, cha để lại’. Phải chăng, sau cách mạng và chiến tranh, ta đã
ngủ quên quá lâu, cuộc sống mới đã làm ta quên dĩ vãng, một dĩ vãng rất
gần. Lề lối làm việc; cách chọn và bồi dưỡng nhân tài, vai trò của ngơời
cầm đầu, trách nhiệm trước dân, cơ chế giám sát đều bất cập đã đưa đến
tình trạng hiện nay…”
Mà, nguyên nhân suy thoái
lãnh đạo lại chính do: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ viên, từng
nhiệm kỳ được bầu lại. Như thế là luật sinh tồn, sự đào thải tự nhiên
được tôn trọng. Thế nhưng, các đồng chí đơơng nhiệm lại dự kiến một cách
khá chặt chẽ, đến từng người của Bộ Chính trị, của Ban chấp hành mới…
Thế là đã già rồi còn sinh đẻ, đứa con là phiên bản của cha mẹ, nó làm
sao thông minh, khoẻ mạnh được. Ta không cần nói đến các tiêu cực trong
việc sắp xếp, chỉ xét về nguyên lý cũng thấy là sai”.
“Mọi
quyền lực thuộc về Đảng. Gọi là Đảng, nhưng thực chất chỉ là những
ngơời cầm quyền. Nhóm này nghỉ, giao quyền cho nhóm kế tiếp, nhóm kế
tiếp được chọn theo ý muốn của nhóm về nghỉ. Có khi người về nghỉ vẫn
chỉ huy đất nước qua đàn em của mình. Đó là một hình thức ‘cha truyền
con nối’”.
“Cha truyền con nối”, nhưng khốn nỗi
cha nào có ra cha! Trần Lâm thẳng thắn: “Thượng bất chính, hạ tắc
loạn”; “Nhà dột từ nóc”: Người có chức cao, quyền trọng, quá thiển cận,
không biết việc làm sai trái của mình sẽ thúc đẩy nhiều người làm theo.
Trên thế nào, dưới như thế.” Ông Đỗ Mười, cầm một món tiền lớn của nước
ngoài, ai cũng biết, thế nhưng ông vẫn hiện diện ở vị trí người đại diện
cao nhất của Đảng ta, nước ta, kể cả ở những ngày lễ lớn nhất, không ít
người tỏ ra bức xúc và lo ngại, nghĩ rằng Đảng và Nhà nước không biết
có thực lòng chống tham nhũng không?”
“Khao
khát một người kiệt xuất, xung quanh là một bộ máy bao gồm những người
tài giỏi, hiện đang nóng bỏng trong nhân dân” đang trở nên vô cùng bức
thiết và rõ ràng không phải chỉ của Trần Lâm.
Đại
hội Đảng lần thứ XI sắp diễn ra, ban lãnh đạo mới sẽ được sắp đặt. Trớ
trêu thay, đâu đó lại đang lởn vởn một mối lo: Nước ngoài đang có ý đồ
tâng một vị thư lại trong BCT ĐCSVN lên làm Tổng Bí thư. Vị này rất được
lòng thiên triều không chỉ vì “lú lẫn” tin vào cái thứ lý luận ngụy
biện đã gieo bao tai họa cho dân tộc mình mà còn sẵn sàng cống hiến cả
Tổ quốc mình cho ý đồ bá quyền của thiên triều!
Viên
thư lại này không được tôi luyện trong thực tiễn đa diện của cách mạng,
không được trui rèn qua những va đập khốc liệt của cuộc sống mà chỉ nhờ
viết mướn diễn văn cho các cụ rồi được các cụ thổi lên rất thong dong
nên rất dễ có tư chất ngây thơ của một cậu ấm hiện đại và tư duy rất dễ
bị “định hướng” phi thực tế.
Vì “lú lẫn” nên
“Từ sau kháng chiến chống Pháp đến gần đây, ta bị các nước lớn chi phối
và lợi dụng. Ta non kém và cả tin. Ta lại du nhập và thực hiện học
thuyết sai lầm: Vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp, lãnh đạo tập
thể; lại có luật đất đai là sở hữu của toàn dân, kinh tế quốc doanh là
chủ lực. Nạn tham nhũng tràn lan. Tất cả như nhấn chìm chúng ta xuống
bùn đen không ngóc đầu lên được”.
“Ta đã trải
qua nhiều giai đoạn, với các học thuyết và biện pháp: Không công nhận tư
hữu tài sản; đánh đổ tư sản địa chủ; có lúc đổ lỗi cho chiến tranh; có
lúc nêu lên cái gọi là giai đoạn quá độ tiến lên XHCN và cuối cùng là
thực hiện bao cấp… Đất nước đi đến cùng cực của khủng hoảng toàn diện.
Cuối cùng ta phải chấp nhận: công nhận sở hữu của các thành phần, công nhận kinh tế thị trơờng, do đó đất nước khởi sắc.”
“Nói
rằng chúng ta tiếp nhận kinh tế thị trường nên chúng ta chấm dứt được
khủng hoảng, đã khởi sắc, là khách quan và đúng đắn. Còn nói rằng ‘đổi
mới’ là một sáng tạo, có tính đặc thù Việt Nam thì xem ra như là một vi
phạm sở hữu trí tuệ.”
Để góp phần cứu vớt đất
nước khỏi sự “lú lẫn” của cái chủ nghĩa tai họa, cái học thuyết ngông
cuồng kia, Trần Lâm khiêm tốn khuyến cáo:
“… tôi không dám nói nhiều. Với suy nghĩ nông cạn của tôi, chỉ xin đề xuất 2 việc:
1 – Phải công nhận quyền sở hữu cá nhân về ruộng đất cho nông dân, một cách trọn vẹn.
Làm
như vậy sẽ thúc đẩy người nông dân có ý thức, có quyền tự do định đoạt
tài sản của mình. Họ có thể đổi ruộng cho nhau để sản xuất thuận lợi; có
thể bán, mua theo lợi ích riêng…; họ có thể chung gom để sản xuất lớn,
theo lối công ty; người có vốn, có kỹ thuật có thể tự mình mua bán đất,
thuê đất để sản xuất quy mô lớn. Quyền sở hữu trọn vẹn đất đai sẽ mở ra
một con đường mới, sản xuất lớn, mở rộng cánh cửa để công nghiệp hóa,
hiện đại hóa…”
“Nông thôn, nông nghiệp vẫn là
nền tảng cuộc sống của đất nơớc ta. Dân số trong nông thôn chiếm hơn
70%. Thế mà mặt này lại thành một góc khuất. Tôi vô cùng băn khoăn vì
chưa tìm được một thông tin nào về một quốc gia 70% nhân dân là nông
dân, với đơn vị sản xuất là hộ nông dân, đất đai manh mún, kỹ thuật lạc
hậu mà có thể tạo được một xã hội dân giàu, nước mạnh, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, văn minh, dân chủ…”
2 – … Cho phép người nước ngoài vào kinh doanh nông nghiệp. Đó là người thầy rất tốt cho chúng ta để mở rộng quy mô sản xuất”.
Trần
Lâm rất quan tâm đến vấn đề dân chủ hóa xã hội. Khi bàn đến vấn đề dân
chủ, ông nhiều lần nhắc đến khái niệm dân chủ của Tổng thống Clinton,
nói tại Đại học Thanh Hoa: “Dân chủ là lắng nghe những ý kiến đối lập,
cùng nhau bàn bạc để tìm các hành động đúng nhất, cho lợi ích chung và
cùng tồn tại bình đẳng”.
Cần kíp thời dân chủ
hóa, phải nhanh chóng xóa bỏ toàn trị độc đóan bởi theo Trần Lâm: “Mang
cái dân chủ mà trộn với cái toàn trị là kéo rào ngược, là nhét đất thó
vào tai vào mắt mọi người, cuối cùng mình làm hại mình.”
Cụ
cổ xúy mạnh mẽ những ý kiến bất đồng dám phát biểu công khai một cách
có trách nhiệm và đánh giá cao những đóng góp của những con người quả
cảm đầy trí tuệ này: “Qua chiêm nghiệm, một số người, trí tụê của họ là
‘dòng sông xanh’, ‘dòng sông hồng’, họ là nhân sĩ Bắc Hà. Họ cho rằng ba
mươi năm qua, có cuộc đấu tranh giữa Đảng và dân. Dân không hề có tổ
chức, có người cầm đầu, êm ả, bền bỉ đến vô cùng. Đảng cứ ép, dân cứ
làm, ép mãi không đơợc đành phải nhả. Dân thắng, Đảng thua là kết luận.
Cuộc đấu tranh ‘khoán hộ’ để chống việc hợp tác hoá ép buộc là chiến
thắng đầu tiên. Đòi công nhận quyền sở hữu nên Luật Dân sự ra đời. Chống
ngăn sông, cấm chợ, đòi tự do kinh doanh nên có Luật doanh nghiệp. Đó
là hai chiến thắng tiếp theo”.
Tuy nhiên, cụ
không thể không ngậm ngùi, chua xót: “Tôi bị bất ngờ: cùng một lúc nhiều
người mà Đảng coi là tinh hoa, là tiêu biểu cho nền tư tưởng, văn hóa
xã hội chủ nghĩa, đều lên tiếng phỉ báng Đảng. Có người đốt tác phẩm rồi
nhịn ăn mà chết. Có người quên hết mình đã có những gì mà chỉ nhớ bài
thơ, bài hát đầu đời khi chưa biết Đảng. Có người sau 30.4 gặp lại bạn
văn thời xưa đã khóc mà nói là mình đã đóng kịch bao năm… Tóm lại họ tự
nhân mình là ‘văn nô’. Trần Đức Thảo thì ra đi trong đau khổ; Nguyễn
Khắc Viện thì giữ khoảng cách đầy kiêu hãnh; còn Nguyễn Mạnh Tường thì
lạnh lùng rời bỏ. Họ là người được thế giới ngưỡng mộ, nhân dân yêu
mến”.
“Cụ Tô Hoài theo Đảng, lúc Tây Bắc, lúc
đồng bằng, ca ngợi Đảng hết lời, đột nhiên cho ra ‘Ba người khác’. Nếu
cụ còn loại này, xin cụ kịp thời cho ra mắt bạn đọc để Đảng ghét cụ, cụ
qua đời sẽ lờ cụ đi, mọi người sẽ đưa cụ đi an nghỉ nơi có côn trùng nỉ
non, có hoa có lá, có trời xanh nước biếc và sẽ để bên cụ ‘Dế Mèn phiêu
lưu ký’. Nếu cụ chậm chạp, Đảng vẫn mến mộ cụ, cụ mất, sẽ đưa cụ vào Mai
Dịch, rồi con cháu cụ xuất bản di cảo; lúc ấy các vị nằm quanh cụ sẽ
đánh đòn ‘hội chợ’ cụ và mọi người sẽ cười cả Đảng, cả cụ, một trận cười
vỡ bụng”.
Tôn trọng những ý kiến khác biệt và
thực tiễn đa nguyên, Trần Lâm khẳng định: “Việc thiết lập thể chế đa
đảng, là việc làm không thể đừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề
không lối thoát, còn có con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường,
một mình ta một hướng thì quả thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù
mờ, ngay trong nội bộ cũng không thông suốt. Thiết lập thể chế đa đảng
là việc làm sáng suốt, một lựa chọn đúng đắn”.
Tuy
nhiên, trên cơ sở nhận định rằng: “Đòi hỏi đa đảng lúc này là phi thực
tế, ta chưa có đảng phái nào có thực lực, thực lực có nghĩa là có cơ sở
rộng, có bộ máy lãnh đạo, có đường lối rõ ràng, có những hoạt động cụ
thể hàng ngày, và quan trọng là phải có một số người ủng hộ và tham
gia”, Trần Lâm chủ trương nâng vai trò quyền lực tối cao của Quốc hội
đặng có thể đủ năng lực và thẩm quyền giám sát Đảng trên cơ sở quan niệm
rằng:
“Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao.
Quyền lực là do dân giao, không ai ban phát. Quốc hội có phe cánh, cùng
nhau đấu tranh, cùng nhau hợp tác, trên cơ sở chân lý. Nếu chưa thuyết
phục thì có thể có trơng cầu dân ý. Tranh chấp trong Quốc hội là công
khai, cạnh tranh lành mạnh, đó là động lực của sự phát triển…”
“Đảng
vẫn ở cương vị lãnh đạo quốc gia, điều 4 Hiến pháp vẫn tồn tại. Các đại
biểu gọi là ‘dân cử’ này, họ không hình thành tổ chức, hoạt động riêng
lẻ, họ chỉ có nhiệm vụ đề đạt nguyện vọng nhân dân, giám sát, phản biện
mà quan trọng nhất là chống lại sự lạm quyền của các cơ quan quyền lực.
Cái khác nữa là họ không bị ràng buộc gì với Đảng cầm quyền, họ hành
động theo ý thức công dân.”
“Quốc hội là sản
phẩm của cách mạng dân chủ tư sản. Quốc hội là nơi các đảng phái đấu
tranh để giành quyền lực, đồng thời cùng nhau hợp lực phát triển đất
nước, theo đường lối thể hiện trong Hiến pháp”.
Trên
cơ sở quan niệm về quốc hội như vậy, căn cứ vào tình hình hiện nay,
Trần Lâm khẳng định chủ trương: “Việc lúng túng, tranh cãi hiện nay xuất
phát từ cái gốc: ta du nhập một thể chế của đa đảng lại muốn biến hoá
phù hợp với nền chính trị độc đảng. Hiện nay, cách giải quyết tốt nhất
là giao cho Quốc hội một phần thực quyền, tạo ra một đối trọng”.
Đối
với nước bạn láng giềng phương Bắc cụ có cái nhìn khách quan và tỏ ra
nể trọng: “Dù chỉ tiếp cận sơ qua, ai cũng thấy Trung Quốc thật đáng
ngưỡng mộ: người đông vô kể, đất rộng như vô tận, thiên nhiên hùng vĩ và
kỳ thú, những công trình xây dựng cũ mới thì đều đồ sộ đến mức khó ngờ.
Sách nhiều vô kể, nội dung hay đến mức để đời. Qua lịch sử, khi loài
người còn mông muội, Trung Quốc đã có nhiều phát minh… Mấy chục năm nay,
như có chiếc đũa thần, Trung Quốc vụt lên giàu có, nhiều ngành khoa học
đạt mức thế giới, quân sự bùng phát. Trung Quốc như đang thách thức,
như đang tranh giành ngôi đầu bảng thế giới”.
Tuy
nhiên, cụ phản đối mạnh mẽ nếu quá tâng bốc: “Trung Quốc hình như đã đi
quá đà: thế kỷ 19 là của Anh, thế kỷ 20 là của Mỹ, thế kỷ 21 là của
Trung Quốc, nhiều người nói thế và các dấu hiệu đã có. ‘Trung Quốc là
con hổ ngủ’, điều này khi tôi còn nhỏ đã được nghe, có đến gần 100 năm
rồi nhưng vội nói rằng có thể chiếm Việt Nam trong 31 ngày, có thể đánh
chiếm Ấn Độ và diệt cả Mỹ… rồi đòi chia đôi biển Thái Bình Dương với Mỹ
lấy Hawai làm mốc… Nói thật hay hù dọa. Tôi tin là đã sa đà vào thế đang
lên thành ra ngoa ngôn”.
Lại nữa, thực tế cả
từ hiện tại lẫn lịch sử buộc cụ phải khẩn thiết cảnh báo: “Cái sợ hãi
hơn là sợ não trạng con người Trung Quốc. Xem trong chuyện cổ, nhiều
nghìn năm trước đến giờ, biết bao nhiêu gương mặt gian ngoan, mưu lược.
Phụ nữ lại còn ghê gớm hơn, ngay cuối thế kỷ 20 mà Giang Thanh còn mưu
mô làm Vua bà nước Tàu… Các nhà phân tích kết luận: khi nàoTrung Quốc
mạnh là Trung Quốc bành trướng. Bây giờ Trung Quốc đang muốn xuống
Phương Nam. Cái cửa cần mở là Việt Nam, mà Việt Nam lại là cái gai khó
gỡ”.
Cụ trầm ngâm truy vấn: “Việt Nam có đường
dây 500 KV, có đường Hồ Chí Minh… và cái gì cũng thấy ‘nhất’ Đông Nam Á.
Ta không có đủ tiền, không có kỹ thuật; lúc ấy Trung Quốc xui làm gấp,
cho vay tiền, chẳng lẽ mình từ chối. Thế rồi người Trung Quốc đưa phong
cách Trung Hoa vào, rồi người ta vận dụng câu nói của Tôn Văn: ‘Ở đâu có
dấu ấn văn hóa Trung Hoa là đất đai của Trung Quốc’ – Ta mất hay còn?
Không hiểu sao Myanmar cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại đi vào xóm
núi. Việt Nam cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại mở rộng gấp 4 lần. Hay
là người ta muốn Việt Nam: thiếu hụt bối rối và hỗn loạn”.
Và
thảng thốt: “… hiện nay Trung Quốc thâm nhập vào nền kinh tế Việt Nam,
thâm nhập bằng cả quyền lực chính trị. Nếu như họ lại có trong tay các
nhóm lợi ích hay là các nhóm lợi ích hai bên kết hợp với nhau thì có lẽ
nền kinh tế Việt Nam đi đứt.”
“Từ Trung Quốc
xây dựng 6 tuyến đường bộ đi qua các nước: Myanmar, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Việt Nam… Sẽ chuyển hoá các trục này từ hành lang giao thông
thành hành lang kinh tế; phát triển rộng khắp 6 tuyến, liên kết với
nhau, liên kết với các nước ven đường. Rồi tổ chức các tuyến này theo
một thể thống nhất ‘Nhất thể hoá’. Từ các tuyến này hội nhập các nền
kinh tế tại chỗ. ‘Lan toả’, có thể hiểu là thâm nhập kinh tế khu vực.
Phần đường đầu mối từ Trung Quốc đã làm xong. Trung Quốc đang giúp các
nước làm cầu, làm đường nối tiếp.Trong 6 tuyến này thì 5 tuyến có điểm
cuối cùng tại Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn.
Tất cả đều là các vị trí xung yếu, trải rộng khắp Việt Nam… Ta mới có 2
đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi
khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng … ‘Nhất thể hoá’, ‘Lan
toả’, với những nội dung mù mờ. Thế có phải là một thể chế cho phép các
hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam? Thế là Việt Nam như
con ếch nằm trong cái rọ: bắc là Trung Quốc, nam là biển, tây có hành
lang này, có Miama canh gác, có cái lưỡi bò ở phía đông”.
Cho
nên, dù đang bước vào tuổi 90, Trần Lâm vẫn kêu goi đi tiên phong dưới
ngọn cờ chống kẻ ngoại bang đang uy hiếp quyền lợi dân tộc mình: “Xét
trong phạm vi thế giới, cái họa Trung Quốc coi như cái họa toàn cầu,
thiên hạ đã dứt khoát như thế. Có các động thái họ cụm lại, cụm để hạn
chế Trung Quốc. Mà hạn chế Trung Quốc trước mắt phải giải quyết vấn đề
Việt Nam. Ông Obama đi khắp nơi rao giảng hòa bình, cố gắng thu hẹp các
lò lửa chiến tranh. Ông đang bàn thảo để khôi phục lại các căn cứ quân
sự Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương. Thế là vừa lên sân khấu, khúc ca đầu
tiên đã cuốn hút lòng người. Giải Nobel của ông không phải là vội vã mà
là đích đáng. Các nước Asean lôi kéo Trung Quốc vào bàn đàm phán để hai
bên cùng có lợi, ai ngờ việc đầu tiên lại là vấn đề biển Đông. Thế là
lời ông Dương Danh Di: ‘phải chống Trung Quốc nhưng Việt Nam đừng chống
một mình’”.
Cụ tỏ ra rất tâm đắc với phương
châm của tôi: “Việt Nam muốn độc lập, tay phải phải nắm Hoa Kỳ, tay trái
phải nắm Trung Quốc”, trên cơ sở nhìn nhận rằng: ”Đối với Mỹ, sự việc
khá rõ ràng: Mỹ muốn ta mạnh lên phù hợp với đường lối toàn cầu của Mỹ.
Mỹ giao thương với ta vì ta là thị trường đầy hấp dẫn. Nhân dân ta thật
tán đồng rộng rãi việc quan hệ chặt chẽ này và kỳ vọng nhiều ở Mỹ. Các
động tác của Mỹ: ủng họ cái này, phê phán cái kia, răn đe, hạn chế thế
này thế nọ, suy cho cùng cũng là những thủ đoạn ngoại giao, mang tính
nhất thời. Nó sẽ đi vào quên lãng. Con đường về cơ bản hầu như không có
gì cản trở.” “Người Mỹ thì rõ ràng, thẳng thắn, họ biết hàn gắn quá khứ,
họ biết tranh thủ cả một dân tộc. Người Trung Quốc đã bỏ mất bao nhiêu
lợi thế để có một Việt Nam đích thực là anh em. Người Trung Quốc khó
hiểu quá và họ tranh thủ ít người nhưng lại làm mất lòng cả cộng đồng!”
Đầu
đề các bài viết của Trần Lâm ngày một khẩn khoản, đến mức như là cuống
quýt: “Phải chăng đã đến hồi bĩ cực”, “Sự thay đổi đã đến gần”, “Sự thay
đổi đã gõ cửa”…
Cụ cảnh báo: “Dựa vào công an
để tồn tại; không được vì một khi trong Bộ Chính trị đang có sự chia rẽ
thì công an nghe ai? Công an thi hành các mệnh lệnh đơn lẻ thì được,
nhưng đại cục, lúc có biến động lớn thì không thể tin được đâu. Nhân dân
biểu tình, ngực đeo biển ‘Tôi là nhân dân’, tay họ cầm hoa… Liệu rồi
những người cầm súng có chúc mũi xuống đất như ta đã thấy khi bức tường
Berlin bị rỡ bỏ không? Đó là cảm nhận của đông người. Dựa vào Trung Quốc
để tồn tại! Tôi chưa hiểu dựa như thế nào, không biết kịch bản Trung
Quốc cứu sự đổ vỡ của Đảng và chính quyền Việt Nam ra sao? Tôi chỉ thấy
con đường duy nhất tồn tại trong thân phận tôi đòi cho Trung Quốc. Không
thể nói là tồn tại mà phải nói là đã bán đứt linh hồn cho quỷ sứ”.
Cụ
khuyên nhủ: “Trước mắt 15 người khổng lồ, cái bàn cờ độc lập và dân chủ
đã bày rõ: đi với Trung Quốc thì mất nước, còn Đảng, còn quyền nhưng
lại là đầy tớ, đi với phương Tây thì mất quyền nhưng còn nước, chỉ mất
thân phận tôi đòi. Mà đi với phương Tây thì phải dân chủ, dân chủ thì
phải phát động quần chúng, giao quyền cho quần chúng. Một sự lựa chọn
khó khăn cho người này, rõ ràng, dứt khoát cho người kia”[1].
Nhân sinh nhật lần thứ 85 của luật sư Trần Lâm
Hà Nội 10 tháng 6 năm 2010
N.T.G.
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Điện thoại ( 04 ) 35 534 370
==============
[1] Các trích dẫn trong bài từ những bài viết sau của Trần Lâm:
“Những ý kiến đóng góp vàp việc chuẩn bị nội dung nghị quyết lần thứ X” (9-2005)
“Năm kiến nghị” (1–2006)
“Những suy nghĩ về cuộc bầu cử Quốc hội năm 2007” (12–2006)
“Nghĩ về tiến trình chính trị ở Việt Nam” (1–2007)
“Hướng tới một Quốc hội đích thực” (3–2007)
“Quốc hội 2007 – Cuộc du nhập đầy khó khăn” (3–2007)
“Lại câu chuyện: giữa đông và tây” (6–2007)
“Quốc hội trên con đường tự khẳng định” (9– 2007)
“Hai năm nhìn lại – Thời cơ – Thách thức – Thành tựu – Yếu kém” (9–2007)
“Phải chăng đã đến hồi bĩ cực” (4–2009)
“Sự thay đổi đã đến gần” (11–2009)
“Sự thay đổi đã gõ cửa” (6-2010)
Tác giả gửi BVN