Trương Nhân Tuấn
Lời tác giả: Từ nhiều tháng qua, liên tiếp các cuộc biểu tình chống người Việt đã xảy ra trên đất Kampuchia, đã qui tụ nhiều người. Cầm đầu là nhóm « Liên hiệp Khmer Kampuchea Krom (AKKK) », do ông Thạch Setha lãnh đạo. Mục đích của các cuộc biểu tình này là yêu cầu ông đại sứ VN là Trần Văn Thông phải lên tiếng xin lỗi người dân Kampuchia, nguyên do vì ông này đã nói rằng « đất Khmer Krom, theo lịch sử là của VN ». Từ đó đến nay không thấy phía tòa đại sứ VN tại Kampuchia lên tiếng trả lời hay bình luận gì về việc này. Tòa đại sứ cũng từ chối các cuộc phỏng vấn của báo chí. Vừa rồi, vị sư có tên là Sơn Hải, nghe nói xuất thân từ Trà Vinh, nguyên là một trong số những người Khmer Krom cầm đầu biểu tình, bị nhà cầm quyền Kampuchia bắt và bỏ tù 1 năm vì tội « cản trở nhân viên công lực thi hành nhiệm vụ ». Trước dư luận dân chúng Khmer cũng như VN, sự im lặng của đại sứ Trần Văn Thông được hiểu như là mặc nhiên nhìn nhận sự sai trái trong lời tuyên bố của mình. Việc nhà sư Sơn Hải bị bắt, có thể vì một lý do khác, nhưng điều này không hề giải quyết được vấn đề mà ngược lại, nó càng làm cho sự hận thù của một thành phần dân tộc VN đối với đất nước của mình càng thêm sâu sắc.* * *
VN (qua các đại diện của mình ở các nước), sẽ phải trả lời trước dư luận thế giới như thế nào để chủ quyền quốc gia về lãnh thổ không bị thách thức, đồng thời lịch sử không bị bóp méo vì quan điểm chính trị hay tinh thần dân tộc chủ nghĩa? Bài này được viết ra, như sự ủy nhiệm của người dân VN, để tìm một câu trả lời thỏa đáng.
Tranh chấp về lãnh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia, nếu xét trên
phương diện những yêu sách khác nhau của người Khmer hiện nay về lãnh
thổ thì ta thấy các học giả Khmer nghiêng về lịch sử. Mà nói về lịch sử
thì có thể nói là tranh chấp hai bên đã xảy ra từ rất lâu. Dầu vậy ta có
thể chia ra làm năm thời kỳ. Mỗi thời kỳ bản chất của tranh chấp khác
nhau, các lý lẽ biện minh cho yêu sách của các bên khác nhau. Điều này
xảy ra do ảnh hưởng địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử cũng như tinh thần
dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ từ các bên.
- Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp 1862.
- Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc.
- Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định Genève được ký kết.
- Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
- Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Giữa hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lãnh thổ trên đất liền, có
hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất khu vực dọc theo biên giới,
thứ hai, tranh chấp vùng đất mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về
chủ quyền các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh chấp về
ranh giới hải phận, về hiệu lực các đảo trong vịnh Thái Lan.
Muốn biết nội tình các tranh chấp này ra sao, lý lẽ mà các học giả
Kampuchia vịn vào để đòi đất đai, lãnh thổ là như thế nào, cũng như các
lý lẽ này có hợp lý hay không? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn
nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của
luật pháp quốc tế.
1/ Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói sơ qua vì các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch sử.
Bắt đầu sau khi VN bình định xong Chiêm Thành khoảng đầu thế kỷ 17.
Lãnh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến Bình Thuận. Từ đó hai dân tộc
VN và Khmer trực tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này thì đế quốc
Khmer đã suy tàn.
Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế kỷ thứ 11.
Theo ý kiến các học giả phương Tây thì lãnh thổ đế quốc này trải dài từ
bắc Thái Lan, một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam
VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm
lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đã chinh phục hầu như
80% lãnh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày xưa đã bị đế
quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân chúng Khmer sót lại đã chạy đi tản mát,
một số trở thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số còn lại
lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước Thái Lan hiện nay vốn ngày
xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như
Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong ký ức của dân Khmer,
bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ thứ 19 thì các phế tích này mới
được mọi người biết đến.
Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế quốc Thái
gặp nhau. Vô hình chung đế quốc Khmer ở Nam Vang trở thành một quốc gia «
trái độn » ở giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn co hai
bên Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đã xây dựng
và củng cố xong địa bàn của mình ở miền Nam hiện nay. Các tỉnh Biên Hòa,
Mỹ Tho được xây dựng dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu
trung thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực
Hà Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc… cũng được
xây dựng nhờ công lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc
Cửu.
Năm 1834 dưới triều Minh Mạng, VN đã áp đặt được quyền lực của mình
lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là « Trấn Tây Thành », lãnh thổ
nước này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự
trợ giúp của quân Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút
đi. Nhưng đến năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, vì so ra ách cai trị
của quân Xiêm còn bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc Khmer phải
chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái Lan. Việc này kéo dài cho
đến khi đế quốc Pháp vào VN.
Trong khoảng thời gian này thì không có vấn đề gọi là « tranh chấp về
biên giới hay lãnh thổ » giữa hai bên Việt và Miên, mà chỉ có hiện
tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế
giới. Tức là, một dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện
hữu các thế lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế
quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay tại Châu Âu, Trung Á,
các nước Ả Rập... các đế quốc chinh phục lẫn nhau để mở rộng bờ cõi.
Mạnh được yếu thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như Roma,
Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là Mésopotamia) thuộc
Irak, Iran hiện nay... có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy tàn. Cá lớn
nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường trực mà không hề dựa trên
một phép tắc hay theo một đạo lý nào. Đế quốc Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh
mẽ biết bao nhiêu. Sau đó thì suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết
đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ ra sao.
Các học giả Tây phương cùng đồng ý rằng, nếu Pháp không kịp thời có mặt
tại Đông dương, đế quốc Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái
lan và VN.
Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của tổ tiên họ.
Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ quốc tế thì không thuyết
phục. Cũng như VN hiện nay khó mà nại lý do Trung Hoa chiếm đất của tổ
tiên mình ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ý bây giờ đâu thể nào
đòi lại lãnh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ đòi tái dựng
lại đế quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lý do như vậy thì thế giới sẽ đảo
lộn, biển Địa Trung Hải sẽ trở thành « nội hải » của nước Ý. Nếu chỉ nói
trong khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Mãn Châu, Vân Nam, Tây Tạng,
Quảng Đông v.v... trước kia là các quốc gia độc lập. Ai cũng lên tiếng
đòi đất, đòi độc lập thì lãnh thổ của Trung quốc sẽ không còn.
Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có quan niệm
quốc gia với đường ranh giới rạch ròi, như là quan niệm của văn minh
Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại lịch sử của họ cũng không tìm
thấy một tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lãnh thổ của họ đã mở từ
đâu đến đâu. Không biết lãnh thổ mình có từ đâu đến đâu thì đòi lại cái
gì? và ở chỗ nào?
Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau khi tiếp xúc
với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc với Pháp, công nhận sự
bảo hộ của Pháp, lãnh thổ Khmer mới lần hồi thành hình qua các đợt phân
giới và cắm mốc sau này.
Những yêu sách về lãnh thổ của các học giả Khmer khi nại lịch sử là
điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai chia sẻ. Kể cả những học
giả quốc tế có cảm tình nhất với dân tộc này.
2/ Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945:
Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước giao các tỉnh miền Nam cho
Pháp năm 1862, thì năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được
sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định,
vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của
Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối
ngoại và đối nội.
Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.
Người lãnh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De La Grandière,
ông này quyết định phân định biên giới nhằm xác định lãnh vực thuộc
quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu
hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía
Thái Lan hưởng lợi.
Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp tấp, Pháp đại
diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm
1867, Xiêm từ bỏ quyền « thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer, nhưng
Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½
lãnh thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và
Siemreap hiện nay.
Điều này trái ngược trên thực tế, vì trước khi Pháp vào Cambodge,
vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN và Thái Lan. Lập trường
ở Paris, là khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp
có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc
Khmer. Kết ước giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ
không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có hiệp ước này
thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu quyền thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của
Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.
Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại vào năm 1893. Các
tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được khôi phục lại.
Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ: năm 1870 và năm
1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm
được 60 mốc, nhưng sau khi phân định xong thì họ lại phản đối. Họ đòi
lại vùng gọi là « mỏ vịt », và người Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả
lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy, vừa sau khi
cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột mốc vừa cắm liền bị nhổ đi
và dời về phía VN.
Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở thành một thành
phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và
Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông
August Pavie, vào năm 1893.
Đường biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở thành
đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương, thuộc thẩm quyền của
quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng Darlac thì được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy ra do việc
trao đổi đất đai: VN nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường
vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng
này lại trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923
vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía
nam là Buôn Mê Thuộc.
Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị quyết của
Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°, thẳng góc so với bờ biển,
theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam
thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer được phân
định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của
nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với
quốc gia.
Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa « irrédentisme
», tức chủ nghĩa đòi lại đất, cho rằng Pháp đã thiên vị VN lúc phân định
biên giới, do đó có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới này.
Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại. Điều này
không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp dụng cho
lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong
thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được
độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.
Vì vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia hiện nay, khi lên
tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer
Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ
và tập quán quốc tế.
Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy, thì nước Mỹ,
nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa,
chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ,
các nước Châu Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới các
nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý
thì thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh
tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên
bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không
có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc
gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị
pháp lý cho đến hôm nay.
Vì thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh thần của quốc
tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan
người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều
có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối
khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về
biên giới thay đổi như chong chóng, hết dựa phía này đến dựa phía bên
kia.
Năm 1945 khi Nhật đến thì lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực
Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm
1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian
hội nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất,
do đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh VN,
Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến
thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả
Sihanouk, cũng lại chống VN vì họ cho rằng lãnh đạo CSVN không giữ lời
hứa trả lại đất, vì thế cuộc chiến 1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn
đề biên giới, lãnh thổ, hải phận… giữa VN và Kampuchia, lúc nóng, lúc
lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa VN và TQ. Những
lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng vì việc TQ đặt giàn
khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư sãi, các chính trị
gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu tình, đòi lại đất. Những điều
này ta sẽ trở lại nói rõ hơn ở phần sau.
3/ Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954:
Trước khi nói về các diễn tiến liên quan đến biên giới giữa hai bên
Việt-Miên trong thời kỳ này, cũng nên nói lại một số chi tiết liên quan
đến đất đai, lãnh thổ sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng ba năm
1945.
Sihanouk đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng 6 năm 1945
Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho
Cambodge, thay vì trả cho triều đinh Huế. Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có qui
chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp
hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion. Quan chức Nhật chưa quyết
định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.
Pháp vào lại VN, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến VN, trong khi
chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền
Bắc. Do những khó khăn này, cùng với thế lực kiệt quệ do đất nước bị
tàn phá do Thế chiến II, Chính phủ Pháp quyết định tổ chức các nước Đông
dương để trở thành Khối liên hiệp Pháp. Ông Bảo Đại được Pháp đề nghị
trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Điều kiện
Bảo Đại là phải trả Nam Kỳ và nước VN là một nước thống nhất ba miền
bắc, trung, nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập lại
trong Hiệp định Genève 1954. Quốc gia VN được thành lập vào năm 1949,
đúng với thể thức quốc tế công pháp. VN cùng với Lào và Combodge, trở
thành những « quốc gia liên kết » trong khối Liên hiệp Pháp.
Phái đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần ngày 2 tháng 4
năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho
Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn Cambodge là lúc ký hiệp định bảo hộ với
Pháp năm 1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ, là vì
vương quốc này nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần
đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Cambodge chớ không thể
trả cho triều đình Huế.
Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ, các tỉnh Nam
Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874.
Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo
lưu nào về lãnh thổ.
Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về lãnh thổ của
Cambodge thì được một số dân biểu cách tả của quốc hội Pháp ủng hộ.
Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội Cambodge
cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên giới.
Những người này cho rằng biên giới giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được
phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị,
gây thiệt hại cho Cambodge. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.
Do căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình, Sihanouk có
khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên, đứng sau
chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề VN. Ông này nghĩ
rằng TQ sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây. Vì
thế trong hội nghị Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường
yêu sách về lãnh thổ của Cambodge. Sihanouk đề nghị 6 giải pháp, hết sức
là cường điệu, có nội dung dẫn lại sơ lược như sau:
Sihanouk đòi, hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất phía hữu ngạn
sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và vùng đất
giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiến Giang đồng thời tàu bè
Cambodge có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.
Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu ngạn sông Tiền
Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng,
Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài
Gòn đồng thời dân Khmer phai được bảo vệ.
Hoặc phải « quốc tế hóa Nam Kỳ », kinh Vĩnh Tế và hải cảng Sài Gòn có
qui chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo
Phú Quốc dưới sự quản trị của LHQ.
Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Sự bẽ bàng của
Sihanouk càng lên cao trong hội nghị Genève tháng 8 năm 1954 giữa Pháp
và các nước Đông dương. Yêu sách của Sihanouk dĩ nhiên không được ngó
ngàng đến. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được quyền
thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng
thuơng cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị VN bảo lưu, lý do cần xem xét
lại luật lệ quốc tế để xem rằng Cambodge có chính đáng được hưởng các
quyền này hay không? Cuối cùng thì các quyền này của Cambodge bị VN bác
bỏ dưới thời ông Diệm.
4/ Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng ý định trả
thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại chính phủ Bảo Đại, sau này
là Ngô Đình Diệm.
Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm được Sihanouk
cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân VNCH
buộc phải đi vào đất của Cambodge. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955.
Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo VN, trong khi trên
thực địa thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía VN. Để trả đũa,
ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi « quyền lịch sử » của Cambodge trên lãnh
thổ VN.
Đến năm 1960 thì lực lượng MTGPMN được thành lập. Tổ chức này cũng
xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Cambodge, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám
thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH « nhìn nhận đường
biên giới hiện trạng của Cambodge », trong khi MTGPMN, cũng như nhiều
cán bộ cấp cao của CSVN, thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ trả lại
đảo Phú Quốc cho Cambodge.
Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn HCM được Sihanouk
đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí
cho quân MTGPMN cũng như quân chính qui miền Bắc sau này.
Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào tháng 8 năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao với VNCH.
Sau khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai bên VNCH và
Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân, người
Mỹ chính thức đổ quân vào VN, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên
đất Kampuchia nhằm phá hoại đường mòn HCM… các việc này gây ra những
thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân Kampuchia. Tháng 7 năm 1965,
Sihanouk kiện VNCH lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra
nhưng chỉ kết luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Cambodge sau đó rút về, vì
lý do bên Cambodge có dung chứa các lực lượng đối kháng, chứ VNCH không
có xâm chiếm lãnh thổ của Cambodge.
Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng kêu gọi
quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận « đường biên giới hiện trạng » của
nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Điều này có thể hiểu vì
Pháp vẫn còn cay đắng Mỹ trong việc dành chỗ của Pháp tại Đông Dương,
không giúp Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Năm 1966 Pháp ủng hộ Cambodge «
trung lập ». Nhưng việc này không thuyết phục được ai vì tên đất
Kampuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường
tiếp tế gọi là đường mòn HCM.
Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970.
Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng của CSVN
rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một người Cambodge nào khác, Lon Nol
cũng rất bài Việt. Trong lúc cuộc đảo chánh, các cuộc thảm sát thường
dân VN đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn
người Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn
trong xã hội miền Nam.
Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yễm trợ và huấn luyện của
CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Kampuchia hoàn toàn do quân
đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhánh có tinh
thần bài Việt cực kỳ. Vì thế họ ly khai. Những nhóm này cũng giết chóc
và khủng bố đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo khác của
Kampuchia.
Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân VN sống trên
đất Kampuchia, trở thành con tin bị các phía Kampuchia trao đổi quyền
lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được,
nhưng dân chúng VN là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này. Con số
nạn nhân VN bị giết phải nói là rất lớn.
5/ Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông dương vừa
là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến lược của các thế lực
quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung
Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên giới, Cambodge không chỉ có
tranh chấp với VN mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi
đền Préah Viheart cũng như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại độc
lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên giới giữa các bên không
chính thức đặt ra, mặc dầu nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.
Nhất là đối với hai nước Việt-Miên.
Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc chiếm
Sài Gòn. Tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ gởi đến Hà Nội để
nhắc lại những cam kết của CSVN: « nhìn nhận đường biên giới hiện trạng
của Cambodge » trong thập niên 60 về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia.
Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo đảm sự «
toàn vẹn lãnh thổ » của hai nước. Nhưng nhóm Khmer đỏ thân TQ trong
phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên
tiếng đòi VN trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là « Khmer Krom ». Điều
nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo
Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của TQ từ xưa nay là chống lại VN thống
nhất, cũng như chống lại việc VN quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên
Xô. Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài
dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án
ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu Kampuchia
hòa hoãn hay thân thiện với VN thì TQ sẽ không có cách gì để phá vỡ thế
cô lập. Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh
như Thái Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ.
Vì vậy Bắc Kinh, cũng như Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên VN và
Kampuchia vào thế đối đầu.
Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và TQ, một tư bản, một cộng sản, do cùng
mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt
ủng hộ Pol Pot chống lại VN. Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh
chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược
trong khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong
quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.
Để kích thích VN vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ còn ở
Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh Thái
Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như
thường lệ, những người dân VN sinh sống ở Kampuchia lại trở thành nạn
nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về VN. Con số bị giết
không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ. Tháng 6 năm 1976, VN
gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer đỏ
đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi đường biên giới theo các bản
đồ của Sở địa dư Đông dương ấn hành năm 1954, trong khi phía VN thì
nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể hiện trên bộ
bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận về biên giới trên
biển.
Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn này đã
tiến sang VN đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96 xã, gây ra
trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho
quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự
phản ứng của quân VN, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt
hại nặng. Và cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống
các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, VN mở một cuộc hành quân thần
tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến quân Khmer đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối
năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với VN.
Chiến tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học giả quốc
tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến « ủy nhiệm ». Pol Pot đánh VN là
đánh cho Trung quốc. Còn VN đánh là đánh cho Liên Xô.
Tháng 12 năm 1978, quân VN tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot và
thành lập chính phủ thân VN ở đây. Cùng với chính phủ này, VN đã ký kết
các hiệp định « các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới ». Trên
đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.
Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng VN tôn trọng
đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông dương 1/100.000. Nhưng
Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng
VN đã chiếm vùng « mỏ vịt », tức là tỉnh Svay Rieng.
Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo được thì
hai bên cùng đồng ý "lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường
phân chia các đảo trong khu vực này", hai bên đồng thuận về « vùng nước
lịch sử » trong khu vực đảo Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian
thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước".
Đảo Wai được VN trả lại cho Kampuchia.
Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại « Hiệp ước hoạch định biên giới ».
Ngày 10-10-2005 ký thêm « Hiệp ước bổ sung » về biên giới. Hai bên bắt
đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn
thuộc lãnh thổ của Kampuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không
đúng.
Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính
quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau đó thì bị
bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông
này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh Sihanouk được đối đãi như là một thuợng
khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ
Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại VN. Cũng vì
lý do này mà đất nước Kampuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước
Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông.
Điều trớ trêu là nhà nước này do TQ dựng lên, lúc đó ông là một thành
phần của nhà nước này.
Tuy vậy, hiện nay TQ vẫn là một đồng minh được ưa chuộng tại
Kampuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì người Hoa được ưu
đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh tế TQ hiện nay là do 10 giòng họ
người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa – Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu
dài mà chất keo hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ
luôn được các bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân chúng để
chống đối VN.
6/ Yếu tố Trung Quốc.
Như đã nói ở trên, sau 1975, lãnh thổ chỉ là cái cớ để TQ kích động
khiến Khmer đỏ gây hấn VN. Thì bây giờ cũng vậy, vấn đề lãnh thổ cũng là
cái cớ để TQ khích động tinh thần bài Việt trong dân chúng Kampuchia
trong thời gian gần đây.
Vấn đề là biên giới trên đất liền đã được hai bên ký hiệp định và các
mốc giới vừa được cắm xong. Hai bên đều thỏa mãn với yêu sách của mình,
vì việc phân giới được thực hiện trên tinh thần bình đẳng, không ai ép
ai. Do đó sử dụng lãnh thổ vùng biên giới để kích động đã không còn hữu
hiệu. Những người Kampuchia hiện nay lên tiếng chống VN thuộc phe Sam
Rainsy, một người theo dân tộc chủ nghĩa, rất thân TQ. Lá cờ đầu để
những người này trương lên chống VN trước kia là các cột mốc biên giới,
nay đổi lại là vùng Khmer Krom và những người dân bản địa sống ở đó.
Nhưng việc khích động người dân như thế không dễ dàng, nếu không có
một cái cớ chính đáng nào đó. Điều này lại do nhà cầm quyền CSVN tạo ra.
Đó là chính sách hà khắc của nhà cầm quyền này lên những người dân của
họ. Điều này không làm ai ngạc nhiên, vì chính đồng bào ruột thịt của họ
là dân miền Nam cũng bị phân biệt đối xử. Những người dân bản địa (mà
nhiều người hiện nay gọi là người Việt gốc Miên) bị truất hữu ruộng đất,
và đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân khiến người dân ở đây chống
nhà cầm quyền VN.
Nếu ta xét lại những đòi hỏi của những người tổ chức biểu tình chống
VN ở Nam Vang thì ta thấy nó không rõ ràng, đôi khi mâu thuẩn. Những yêu
sách của họ như buộc VN phải « nhìn nhận sự thật lịch sử », hay nhìn
nhận « VN chiếm đất của Kampuchia » đều có vẻ không thực tế.
Vấn đề là họ đã lầm lẫn giữa quyền sở hữu đất đai của những người dân
bản địa bị nhà nước CSVN truất bỏ, với chủ quyền về lãnh thổ.
VN có chủ quyền về lãnh thổ ở các khu vực mà dân Khmer gọi là Khmer
Krom, điều này đã được củng cố bởi thời gian hàng nhiều thế kỷ qua, cũng
như được bảo đảm bởi luật lệ quốc tế. Ý nghĩa của từ chủ quyền ở đây là
« quyền lực chủ tể » trên vùng lãnh thổ đó chứ không phải là « quyền
làm chủ », hay quyền sở hữu vùng lãnh thổ đó như nhiều người đã hiểu
lầm. Quyền lực chủ tể có thể ban phát quyền sở hữu về đất đai, nhưng
cũng có thể truất hữu, hay bãi bỏ quyền đó. Vấn đề là nhà nước CSVN lạm
dụng « quyền chủ tể » này, truất hữu hàng loạt ruộng đồng, nhà cửa,
không chỉ của dân bản địa, mà của nhân dân trên khắp ba miền đất nước,
gây sự bất mãn cùng cực nơi mọi tầng lớp người dân. Cán bộ CS lạm dụng
quyền chức, lấy đất của người thấp cổ bé miệng giao cho những thế lực
tài phiệt nhằm trục lợi. Các điều này tạo ra những bất công, làm cho sự
thù hận của người dân ngun ngút đến trời cao.
Vì vậy, do nhập nhằng về khái niệm, những người dân bản địa phẫn uất
đã bỏ VN sang sinh sống ở Kampuchia. Tại đây họ được các thế lực bài
Việt kích động, trở lại chống VN. Điều cần nhấn mạnh: họ là người VN,
sinh đẻ tại VN, tổ tiên của họ đã ở trên vùng đất đó từ lâu đời. Điều
ngạc nhiên là đến bây giờ những người này vẫn bị xem là « người Việt gốc
Miên ». Tức là chính sách phân biệt giai cấp của CSVN đã đổi màu để
biến thành chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Trên đất Kampuchia, mặc dầu họ có chung nguồn gốc xa xôi, nhưng họ
vẫn là người VN. Để tạo sự tin tưởng nơi người Kampuchia chính gốc,
những người dân Việt ly hương này chống VN còn cực đoan hơn những người
dân Kampuchia chính gốc. Đây là một hiện tượng tâm lý, dễ bị người khác
lợi dụng.
Điều đáng lo ngại là TQ có thể sử dụng lớp người bất mãn này, nuôi
dưỡng họ, huấn luyện họ. Trong khi kinh tế Kampuchia lại có khuynh hướng
phát triển hơn VN. Việc này càng tạo cho Kampuchia một sức hút khiến
người Việt đổ xô về đây tìm cách sinh sống. Tất cả các yếu tố này đều
nguy hiểm cho VN. Ta không thể bỏ qua viễn tượng, một ngày nào đó, chính
những người Việt này được TQ vũ trang để trở về chống lại VN.
Lúc đó, một VN yếu, kinh tế kém phát triển, kéo theo sự yếu kém về quân sự, có thể dễ dàng bị lệ thuộc vào nước ngoài.
7/ Giải pháp nào?
Như đã nói, vấn đề bài Việt ở những người dân bản địa VN, vấn đề đòi
lại đất, là do từ chính sách hà khắc của nhà nước CSVN. Chủ trương « sở
hữu tập thể về đất đai » thực ra là để tạo một nguồn kinh tài cho đảng
CSVN. Ở VN hiện hữu cái gọi là « quĩ đất ». Lãnh đạo có thể sử dụng đất
từ các « quĩ » này như là một nguồn tài chánh, tương tự như các mỏ dầu
khí, đưa vào ngân sách quốc gia để chi phí điều hành. Việc lạm dụng đã
tạo ra tại VN một tầng lớp dân oan, những người trắng tay vì đất đai bị
truất hữu. Việc truất hữu phần nhiều không minh bạch, vì mục đích của nó
không nhằm phục vụ cho quyền lợi của số đông mà chỉ cho một vài cá
nhân, tài phiệt. Những người dân oan này phần nhiều là những người dân
tộc thiểu số vùng tây bắc, trên tây nguyên, hay ở miền Nam.
Trong khi việc tạo « quĩ đất » không hề thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ngược lại, tệ nạn đầu cơ về nhà đất đã tạo ra những bong bóng tài chính
đe dọa sự hiện hữu cũng như các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Nền
kinh tế VN có nguy cơ sụp đổ.
Khi đã biết được nguyên nhân thì biện pháp chế ngự hệ quả không phải
là việc khó khăn. Đối với những người dân bản địa ở miền Nam, để họ
không bỏ nước sang Kampuchia lập tổ chức chống đối, điều nhà nước cần
phải làm là cho những người đó thấy là sống ở VN sung sướng, thoải mái
hơn là sống ở Kampuchia. Việc này không chỉ áp dụng cho những người dân
bản địa, mà cho chung mọi người dân VN. Tức là kinh tế VN phải phát
triển hơn Kampuchia. Chế độ VN nhân bản, tình người hơn chế độ
Kampuchia. Tức là, chỉ còn cách duy nhất là thay đổi thế chế chính trị:
dân chủ hóa chế độ. Chỉ dưới một chế độ dân chủ VN mới có thể phát triền
lành mạnh.
Tiếp theo là trả lại cho người dân những gì đã là của họ. Những gì
của tổ tiên họ đã tạo ra, đã là của họ, thì phải trả lại cho họ. Trả ở
đây là trả quyền sở hữu đất đai chứ không phải từ bỏ « chủ quyền lãnh
thổ ». Kế đến là xây dựng một chính sách « hòa giải dân tộc ». Làm thế
nào cho mọi người dân thấy rằng họ được tôn trọng. Tôn trọng về nhân vị
là tôn trọng văn hóa, tôn giáo, lịch sử, lề lối sinh hoạt… của người dân
đó.
Sẽ không có biện pháp nào khác. Mọi đàn áp, trừng trị tù tội hôm nay
sẽ không dẹp được ngọn lửa căm hờn, mà chỉ làm cho áp lực ngày càng tăng
thêm. Một khi nhà nước yếu đi, vì lý do kinh tế thí dụ vậy, thì ngọn
lửa này sẽ bùng cháy mãnh liệt. Nếu được sự tiếp tay của ngoại bang, thì
VN sẽ không có cách nào trấn áp được. Lãnh thổ bị phân liệt là điều sẽ
đến.