S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Dân Luận
Đời vẫn vốn không nương người thất thế.
Nguyễn Tất Nhiên
Nguyễn Tất Nhiên
Những ngày cận lễ, tôi hân hạnh nhận được qua email một bài viết mới (“Thanksgiving 2014 & Dân Việt Tỵ Nạn”) của nhà văn Giao Chỉ. Xin được trích dẫn đôi đoạn ngắn để chia sẻ cùng độc giả:
Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày Lễ Tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm. Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng...
Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.
Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay...
Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.
Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có cơ hội trở thành người Mỹ. Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee Act...
Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân Việt đã ra đi trong đó nhiều di dân không bao giờ đến được miền đất Hứa...
Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower Việt Nam đã ra đi từ khắp miền duyên hải có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.
Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền. Boat People ngày nay có nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.
Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền đất mà chúng ta yêu quý. (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love).
Nhận định này, tiếc thay, không hẳn đã hoàn toàn đúng với
tuyệt đại đa số người Việt đang sống lây lất ở Cambodia. Phần
lớn họ không được chính phủ sở tại xem là cư dân hợp pháp nên
vẫn cứ là những boat people (bấp bênh sinh sống trên thuyền) ở Biển Hồ, và nhiều bến bờ khác nữa xuôi theo dòng sông Tonlé Sap.
Ảnh NCB – November 2014
Sau một chuyến đi thăm đồng hương ở đất nước này, nhà báo Văn Quang kết luận:
“Hầu hết là người Việt Nam lưu lạc qua Campuchia vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng tựu chung họ là những người đi kiếm sống ở một vùng tưởng rằng đó là đất hứa... Trước hay sau họ cũng phải tìm đường đi thôi. Nhưng đi đâu, làm cái gì để sống là những hòn đá tảng níu chân họ lại. Rồi bao nhiêu đời vẫn cứ thay nhau lầm than cơ cực ở nơi xứ người này, không có lối thoát. Họ vẫn chỉ có một ý nghĩ, ở đây họ còn có chiếc thuyền, dù rách nát, nhưng họ vẫn có một nghề chài lưới kiếm sống qua ngày. Đi nơi khác, chẳng biết bấu víu vào đâu!”
Ảnh NCB – November 2014
Trong bản tường trình (The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia) của MIRO
– Minority Rights Organization – phổ biến vào tháng 3 năm 2014, tổ
chức này đã ví von đám người Việt đang sinh sống nơi đây là
“những kẻ đang sống ngoài cửa thiên đàng.” Ngay giữa thiên đàng
của xứ Chùa Tháp (ngó bộ) cũng không hạnh phúc hay tự do gì
cho lắm, nói chi đến thân phận của những kẻ còn “kẹt” ở bên
ngoài.
Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?
Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?
Xin thưa cái ... quốc tịch Cambodia.
Nhà văn Giao Chỉ cho biết “Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban
hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ
ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.”
Cao Miên không phải là Mỹ Quốc nên xứ sở này không có luật lệ
gì đàng hoàng và rõ ràng, cùng với những lời lẽ “vàng
ngọc” như vậy.
Vô số người Việt sinh đẻ ở Miên còn chưa được cấp cái giấy
khai sinh, nói chi đến những thứ xa xỉ như thẻ căn cước hay quốc
tịch. Và không quốc tịch cũng có nghĩa là không có quyền
tiếp cận với tất cả những dịch vụ và quyền lợi tối thiểu
như người dân bản xứ: không y tế, không giáo dục, không có quyền
sở hữu đất đai hay tài sản …
Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ mong được sống cho nó yên thên thôi nhưng sự mong muốn giản dị này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.
Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ mong được sống cho nó yên thên thôi nhưng sự mong muốn giản dị này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.
Chính phủ Cambodia đang tiến hành một cuộc kiểm tra dân số
mà nhiều quan sát viên cho rằng mục đích chính của nó là nhắm
vào đám dân Việt Nam đang ngụ cư ở đất nước này. Ông Sok Hieng –
công nhân xây cất, 33 tuổi, sinh ở Nam Vang nhưng có bố mẹ gốc
việt – bầy tỏ sự lo âu: “Tôi sợ rằng mình sẽ buộc phải rời
khỏi Cambodia vì tôi chưa có thẻ căn cước. Khi tôi đến Việt Nam,
họ coi tôi là người Miên; tôi ở giữa người Miên và người Việt.”
(Sean Teehan & Phak Seangly. “Vietnamese wary of planned census.” The Phnom Penh Post 26 August 2014).
Nỗi lo sợ của Sok Hieng đã trở thành sự thực vào hai tháng
sau, vân theo The Phnom Penh Post, số ra ngày 3 tháng 10 năm 2014:
“Chỉ trong vòng một ngày 142 người di dân bất hợp pháp Việt Nam
đã bị trả qua biên giới – Census deportations hit 142 in single day.”
Cùng với sự bất an, nếp sống bấp bênh và nghèo khó là nét
nổi bật trong sinh hoạt hàng ngày của đa số dân Việt ở
Cambodia – theo như tường trình của thông tín viên Quốc Việt, RFA:
“Hầu hết người Việt sống trên làng nổi, theo bờ sông đều không có đất đai sản xuất nên họ bắt buộc lăn lộn lén lút đi đánh bắt cá. Các gia đình đều muốn cho con em có nơi chỗ ăn học để vươn lên trong xã hội và đóng góp cho đất nước tuy nhiên tất cả đều không có khả năng.”
Nhiều năm trước, sau khi chia tay đồng bào mình ở Cambodia –
vào tháng 12 năm 2008 – nhà báo Văn Quang vẫn còn nhìn ngoái
lại, với rất nhiều ái ngại:
“Hình ảnh những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ, những gia đình 7-8 đứa con sống lúc nhúc trên chiếc ghe rách tơi tả còn bám theo tôi mãi.”
Đến hôm nay chúng tôi mới lò dò đến xứ sở này, và kinh
ngạc nhận ra rằng hình ảnh của “những bà cụ già lưng còng lom khom
trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt
nhìn khách lạ” vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thời gian, dường như,
không hề trôi trên những bến nước ở nơi đây.
Ảnh NCB. November 2014
Chúng tôi ghé làng nổi Kandal và Chong Kok, thuộc xã Phsar
Chhnang – tỉnh Kampong Chhnang – nằm ở phần đuôi của Biển Hồ (nơi
hiếm có khách du lịch nào lai vãng) vào cuối tháng 11 năm
2014. Theo lời ông trưởng thôn: nơi đây có 931 gia đình người
Việt, nhân khẩu chính xác là 4,760, tất cả đều là người Việt
hay gốc Việt.
Người Miên và người Chàm không sống trên ghe, và họ có quyền
lựa chọn một lối sống bình thường (trên bờ) như đa phần nhân
loại. Số dân Việt Nam đang trôi nổi ở xứ Chùa Tháp thì không.
Họ là thứ sắc dân vô tổ quốc (stateless ethnic Vietnamese, theo
như cách gọi chính thức của các N.G.O đang hoạt động ở
Cambodia) nên không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai, và
buộc phải chấp nhận một nếp sống rất bồng bềnh, và vô cùng
bấp bênh – như hiện cảnh.
Chúng tôi đi ghe vòng vòng thăm hỏi và trò chuyện với chừng
chục gia đình người Việt, những thuyền nhân (boat people) ở
Kampong Chhnang. Không ai chuẩn bị gì ráo trọi cho mùa
Thanksgiving này cả. Họ hoàn toàn không có chút khái niệm gì
về Lễ Tạ Ơn. Họ biết tạ ơn ai, và “tạ” về chuyện gì đây?
Ảnh NCB. November 2014