Diên Vỹ chuyển ngữ
Chương 17: Sau những hào nhoáng
Điều đầu tiên Hồ Cương giảng giải cho tôi về việc hối hộ một thẩm
phán là tầm quan trọng của ẩm thực. “Mọi người đều từ chối lời mời đầu
tiên. Sau ba hoặc bốn lần mời mọc, bất cứ ai cũng chấp nhận - và một khi
anh đã ăn uống với nhau, anh đang trở thành gia đình.” Trong mọi bình
phẩm về nạn tham nhũng ở Trung Quốc, chi tiết về việc nó hoạt động ra
sao: những cơ chế tinh vi, những thủ tục và những cấm đoán… vẫn là điều
bí ẩn đối với tôi. Trong những năm qua, tôi đã thu thập được một số kiến
thức vụn vặt qua việc tìm hiểu cuộc đời của Lưu “Đại nhảy vọt” tại Ma
Cao hoặc đọc những phóng sự điều tra trên báo Tài Tân của Hồ Thư Lập.
Cho đến khi tôi gặp Hồ Cương, anh ta bắt đầu giúp tôi lấp đầy những
khoảng trống còn lại.
Mới nhìn qua, Hồ Cương rõ ràng không phải là một người thầy của môn
nghệ thuật đen về thăng tiến. Khi tôi gặp anh ta, anh đã là một tiểu
thuyết gia, một người đàn ông nhỏ con, khó tính vào tuổi năm mươi đang
càu nhàu một cách tự hào nhưng lo lắng về đứa con gái của mình và dặn dò
những người kèm cặp không được cho nó ăn nhiều quá. Nhưng cũng như
nhiều người khác, một khi cơ hội đầy rẫy, anh ta không thể nào cưỡng
lại. Khi còn ở đại học, Hồ theo ngành triết, và sau khi tốt nghiệp, anh
bắt đầu một sự nghiệp êm ả trong Phòng Nhân sự của một trường đại học.
Khi nền kinh tế Trung Quốc cất cánh, anh tìm được việc làm tại một công
ty đấu giá, chuyên bán những tranh cổ Trung Quốc và nhận lãnh huê hồng
sau mỗi bức tranh bán được. “Tôi khám phá ra rằng nhiều bức tranh và
trướng người ta gửi tới là đồ giả, điều này làm tôi rất lý thú,” anh kể
với tôi trong một buổi ăn trưa. “Tôi nghĩ, chà, tôi vẫn có thể bán những
món này với giá cao, ngay khi lương tâm tôi cảm thấy áy náy.”
Lòng áy náy của anh không lưu lại lâu. Anh bị tràn ngập bởi tranh giả
đến nỗi cuối cùng cũng tự mình làm lấy và đã ngạc nhiên nhận thấy rằng
mình cũng có năng khiếu nhái lại những nét cọ mạnh mẽ của Tề Bạch Thạch
hoặc phong cách hiện thực của Từ Bi Hồng. Anh cũng đã mở rộng nghề đấu
giá của mình qua lĩnh vực quản lý nhà bị thu hồi, trong đó một chữ ký
của một thẩm phán có thể giúp anh kiếm được một món huê hồng hậu hĩnh
qua việc bán các toà nhà, đất hoặc những tài sản khác. Dường như ai cũng
muốn kiếm phần, Hồ nói. “Thế nên tôi bắt đầu nghĩ, nếu họ làm được, sao
mình lại không?”
Nhưng mọi thứ ở Trung Quốc đều có sự cạnh tranh, nhiều người đang
tranh giành cơ hội để hối lộ một vài người có quyền lực, và Hồ nhận ra
ngay rằng anh phải làm điều gì trên cả quà cáp. Anh ta phải xây dựng
những quan hệ cá nhân, và hoá ra anh lại có tài về khoản này; anh hối lộ
những thẩm phán trước hết bằng thuốc lá, rồi tiệc tùng, sau đó là những
chuyến đi mát xa. Chẳng ai chỉ dạy anh cả, nhưng anh vốn là một người
tỉ mỉ, và đã tạo ra một số luật lệ để tự mình tuân theo: không bao giờ
hối lộ một người lạ; tặng tiền bạc vào mùa thu, khi hoá đơn học phí vừa
gửi về. Không bao lâu, anh đã bận rộn với vô số quan hệ với các chánh án
đến nỗi một ngày anh phải đi đến ba tiệm mát xa. “Ba lần một ngày,” anh
nói, nhìn tôi một cách báo động. “Không dễ chịu chút nào, mệt lắm.”
* * *
Trong hàng thế kỷ qua, mọi thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đều đưa ra
chiến lược riêng của mình để xoá nạn tham nhũng. Hồng Vũ Đế trong thế kỷ
mười bốn đã ra lệnh tử hình các quan chức ăn cắp, lột da và nhồi rơm
vào thi thể của họ như những hình nộm để làm gương. Nhưng những răn đe
này cũng chẳng kéo dài được. Quyền cao chức trọng vẫn là con đường chắc
chắn để tiến tới giàu sang, đến nỗi một kẻ môi giới tên là Hoà Thân, khi
bị bắt vào năm 1799, ông đã thâu tóm một tài sản lớn gấp mười lần ngân
sách thường niên của chính quyền. Năm 1935 nhà văn và dịch giả Lâm Ngữ
Đường nhật xét rằng, “Ở Trung Quốc, một người có thể bị bắt vì ăn cắp
một chiếc ví, nhưng anh ta không bị bắt vì ăn cắp tài sản quốc gia.”
Trong thời kỳ hiện đại, tham nhũng và tăng trưởng đã cùng nhau bùng
nổ. Trong những năm tám mươi, một cây thuốc lá Song Hỷ và cặp rượu gạo
hiệu Sao Đỏ cũng đủ để giúp chuyển công tác hoặc đổi được tem phiếu để
mua một chiếc máy giặt. Nhưng đến năm 1992, khi nhà nước bắt đầu mở cửa
việc phân bố đất đai và nhà máy cho tư nhân, cơn bùng nổ về tham nhũng
bắt đầu. Trong năm đầu, trung bình giá trị tài sản thu hồi từ những vụ
hối lộ đã tăng lên gấp ba, ở mức sáu nghìn đô la. Thuốc Song Hỷ nhường
chỗ cho giỏ Hermès, xe thể thao, và học phí cho con cái du học nước
ngoài. Thương vụ càng lớn, càng cần cán bộ cấp cao hơn phê chuẩn, và món
tiền hối lộ tăng cao theo cấp bậc. Các quan chức và thương nhân bảo vệ
lẫn nhau bằng cách câu kết nhau vào các “ô dù”, một bước đi mà các học
giả Trung Quốc gọi là “mafia hoá” nhà nước.
Ban đầu ảnh hưởng từ tệ nạn này mang tính trừu tượng, nhưng chúng mau
chóng trở nên rõ rệt. Hết vụ này đến vụ khác, các thảm hoạ khiến dân
chúng Trung Quốc giận dữ đều bắt nguồn từ hối lộ, gian lận, tham nhũng
và bao che: Những ngôi trường bị sập trong vụ động đất Tứ Xuyên đã bị
bòn rút vì nạn lại quả, chuyến tàu tốc hành bị lật tại Ôn Châu được quản
lý bởi một ban ngành tham nhũng nhất quốc gia. Trong trường hợp sữa hộp
bị nhiễm độc làm chết trẻ em năm 2008, các nông gia nuôi bò và các đại
lý trước tiên đã hối lộ các nhân viên kiểm tra của nhà nước để làm ngơ
việc các chất hoá học hiện hữu trong sữa. Rồi sau khi các trẻ em bị mắc
bệnh, công ty sữa lại hối lộ các hãng truyền thông để ém nhẹm câu
chuyện.
Với óc sáng tạo, mọi thứ đều có thể trở thành món quà hối lộ. Các
thương nhân sắp xếp các buổi đánh bạc trong đó các quan chức bảo đảm sẽ
thắng. Rượu trở thành một lựa chọn đầy tin cậy đến nỗi truyền thông nhà
nước phải thừa nhận rằng sản lượng bán của rượu Quý Châu Mao Đài, thương
hiệu rượu nổi tiếng nhất nước, là “một chỉ số tham nhũng của Trung
Quốc.” Năm 2011 rượu này bán chạy đến nỗi công ty này đã chia số lợi
nhuận lớn nhất trong lịch sử thị trường chứng khoán Trung Quốc. Nhu cầu
rượu quá cao khiến công ty phải giới hạn tiêu chuẩn cho mỗi cửa hàng.
Có lần tôi đến thăm Mao Vu Thức, một nhà kinh tế học cấp tiến. Ông
sống gần trụ sở của cơ quan kế hoạch đầy quyền lực của Trung Quốc, Uỷ
ban Phát triển và Cải cách Quốc gia. Ông chỉ ra rằng uỷ ban này bị bao
vây bởi các cửa hàng bán rượu và đồ sứ. Người dân cần giúp đỡ biết phải
mua những món quà này trước khi vào gặp. “Tất cả những người ngoài thành
phố vào toà nhà này đều mang những túi xách lớn nhỏ, và khi ra thì tay
không,” nhà kinh tế học nhận xét. “Khi các cán bộ ra về, họ mang theo
tất cả các túi xách lớn nhỏ ấy, nhưng họ không thể nào xài hết mọi thứ,
vì thế họ quay lại bán chúng cho các cửa hàng, các cửa hàng này lại bán
lại cho những ai đang đến Bắc Kinh cần giúp đỡ. Con phố của chúng tôi đã
trở nên như thế đó.”
Các công chức nhà nước - trên danh nghĩa có thu nhập từ hai đến ba
mươi nghìn đô la một năm - trở thành những khách hàng thường xuyên của
Gucci và Louis Vuitton, khiến các cửa hiệu cao cấp tại Bắc Kinh đã cháy
hàng mỗi khi có kỳ họp Quốc hội. (Các chính trị gia rút kinh nghiệm và
gọi đặt các món hàng mình yêu chuộng trước.) Trong một số trường hợp,
một doanh nhân sẽ đi theo một quan chức nào đấy dạo quanh các quầy hàng,
nhưng nếu việc này trở nên quá lộ liễu, anh ta sẽ gửi thẻ tín dụng của
mình lại để cửa hàng thanh toán nếu cần. Đa phần thì khó mà biết được ai
đang chi trả cho ai, nhưng đôi khi một vụ xét xử cũng hé lộ cho thấy
đồng tiền được sang tay như thế nào. Khi công an Ma Cao bắt giữ Âu Vân
Long, Bí thư Giao thông và Công vụ của đặc khu, ông có một tuyển tập các
“sổ tay hữu nghị” trong đó ghi chép các vụ lại quả lên đến cả trăm
nghìn đô la.
* * *
Điều thứ hai mà Hồ Cương dạy tôi về việc hối lộ một thẩm phán là anh
không thu lại bất cứ đìều gì trong ít nhất là sáu tháng. “Tình bạn là vô
cùng to lớn,” anh nói. “Một tình bạn vô cùng thân thiết khiến cả hai
không giấu nhau điều gì.” Anh vừa nói vừa vun một đống thịt lợn trong tô
của mình. “Chỉ sau khi anh biểu lộ lòng trung thành của mình rồi thì
anh mới có thể chứng tỏ khả năng của mình - rằng anh có thể làm điều mà
anh nói, và anh sẽ luôn làm một cách xứng đáng với người ấy.” Anh ta
nheo mắt lại và im lặng nhai trong khi suy nghĩ. “Với những bước này,”
anh nói, “ai cũng có thể bị dính vào, và mối quan hệ trở nên chắc chắn
không gì phá nỗi.”
Chiến lược của Hồ Cương không phải là không tốn kém. Trong năm đầu
tiên hối lộ các thẩm phán, anh chi đến hai trăm rưỡi nghìn nhân dân tệ
tiền quà cáp, gái và ăn uống. Nhưng sau năm năm, nó đã gây lãi rất lớn.
Anh đã có được một công ty đấu giá lớn nhất trong thành phố và một dành
dụm một món tiền khiêm tốn là 1,5 triệu đô la. Nó trở thành một nhịp
điệu đối với anh. “Tôi ngủ cho đến trưa và bắt đầu lịch trình trong
ngày, bao gồm cả việc chăm sóc các bồ nhí của các ông ấy,” anh nói.
Nhưng thậm chí cả bản thân anh cũng muốn đòi hỏi thêm. “Nếu tôi kiếm
được ba hay năm triệu một năm, tôi lại luôn suy nghĩ bằng cách nào để
kiếm được thêm vào năm tới. Nếu tôi đứng thứ ba trong thành phố, làm
cách nào để tôi đứng nhất? Giống như anh chạy, một khi anh đã chạy rồi
thì không thể dừng lại được. Anh cứ tiếp tục chạy và chạy. Anh không
nghĩ đến những quan hệ một cách tỉnh táo. Về mặt tâm lý, anh đang sống
trong thế giới của chính mình.”
Đối với người ngoài, thường khó mà thấu hiểu hết mức độ tham nhũng ở
Trung Quốc, một phần vì nó cách biệt với đa số mọi người. Những du khách
đến Trung Quốc, so với những quốc gia đang phát triển khác, không bị
hải quan hay công an đòi hỏi những món hối lộ nhỏ nhặt; trừ khi dân
ngoại quốc sử dụng trường học hoặc bệnh viện ở Trung Quốc, họ không cảm
thấy được nạn tham nhũng trườn vào hầu như mọi ngõ ngách của xã hội
Trung Quốc. Trên giấy tờ, ngành giáo dục công Trung Quốc bảo đảm miễn
phí, nhưng phụ huynh hiểu rõ họ phải trả “phí bảo trợ” để con mình được
vào học các trường tốt. Ở Bắc Kinh, lệ phí này lên đến 16 nghìn đô la -
hơn gấp đôi mức lương trung bình hằng năm của một người. Trong cả nước,
46 phần trăm giới phụ huynh trả lời một thăm dò cho biết mối “quan hệ xã
hội” mật thiết hoặc tiền lệ phí là phương cách duy nhất để con mình có
được một nền giáo dục tốt. Đến năm 2011, theo một báo cáo của Học viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc, chính quyền đã điều tra các vụ tham nhũng
với mức độ mỗi ngày một vụ đối với các quan chức cấp bộ, tương đương với
chức thị trưởng.
Mua quan bán chức cũng xảy ra thường xuyên đến nỗi vào năm 2012, Tự điển Hiện đại Trung Quốc, cơ quan quản lý ngôn ngữ quốc gia, đã buộc phải thêm vào từ Mãi Quan
- “mua một chức vụ trong chính quyền”. Trong một số trường hợp, những
lựa chọn trông giống như một thực đơn nhà hàng. Trong một thị trấn nhỏ ở
Nội Mông, chiếc ghế trưởng phòng kế hoạch được bán với giá 103 nghìn đô
la. Chức bí thư thị uỷ nằm ở giá 101 nghìn đô la. Nó đi theo một logic
là: trong những nền dân chủ yếu kém, người ta kiếm chức bằng việc trả
tiền để mua phiếu bầu; trong một quốc gia không có phiếu để mua thì anh
trả tiền cho những ai có quyền cấp phát những chức vụ ấy. Ngay cả giới
quân đội cũng lan tràn nạn bảo kê; các tư lệnh nhận đường dây chi trả từ
cơ cấu kim tự tháp gồm những sĩ quan trung thành cấp dưới. Một vị tướng
một sao được cho là có thể kiếm được hàng chục triệu đô la từ quà cáp
và các thương vụ; một tư lệnh bốn sao có thể kiếm được ít nhất 50 triệu
đô la.
Quốc gia nào cũng có nạn tham nhũng nhưng Trung Quốc đang bước đến
mức thượng thừa. Đối với những người nắm chức vụ tối cao, độ cám dỗ đã
đạt đến mức mà phương Tây chưa bao giờ gặp phải. Không dễ gì để biết
được ai giả và ai thật sự làm giàu từ hai bàn tay trắng, nhưng những
chức vụ trong chính quyền là con đường bảo đảm đi đến giàu sang với mức
độ riêng của mình. Đến năm 2012 bảy mươi đại biểu giàu nhất trong quốc
hội Trung Quốc có tổng tài sản trị giá gần 90 tỉ đô la - hơn gấp mười
lần tổng số tài sản của toàn bộ thành viên lưỡng viện Hoa Kỳ.
* * *
Việc có quá nhiều tiền và quá ít tính minh bạch đã gây ảnh hưởng đến
những nghi thức nghiêm trang của Đảng. Năm 2012 được dành riêng để dọn
dẹp cục diện chính trường - việc chuyển giao quyền lực từ một thế hệ
lãnh đạo tối cao cho một thế hệ khác. Kế hoạch rất rõ ràng: trong một
ngày của mùa thu năm ấy, giới lãnh đạo tương lai sẽ đi lên khán đài của
Nhân dân Đại sảnh, lịch sự vỗ tay chúc tụng nhau trước bức tranh Vạn lý
Tường thành 18 mét. Nhưng chỉ một tháng sau khi năm mới đến, kế hoạch
này bắt đầu đổ vỡ.
Vương Lập Quân là cựu giám đốc sở công an Trùng Khánh; ông từng được
báo chí Đảng ca ngợi vì tính cứng rắn và sáng tạo, bao gồm việc chu toàn
quá trình di chuyển nội tạng của tử tù. Nhưng vào ngày 6 tháng Hai ông
đã lái xe vào trốn trong lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô và muốn được
người Mỹ bảo vệ. Ông bảo họ rằng ông vừa khám phá ra một vụ giết người,
và đổ tội cho xếp của mình là Bạc Hi Lai, bí thư Trùng Khánh, người lúc
ấy đang là ứng cử viên hàng đầu cho vị trí trên khán đài của Nhân dân
Đại sảnh. Nạn nhân là một doanh nhân người Anh tên Neil Heywood, một
người đàn ông 41 tuổi thường mặc đồ nhạt với phong cách kín đáo, một
“nhân vật trong tiểu thuyết của Graham Greene - luôn luôn lịch lãm, rất
quí phái, rất uyên thâm,” theo lời của một người bạn của Heywood kể với
truyền thông Anh. Heywood làm việc bán thời gian cho một công ty thu
thập tin tức do các cựu thành viên tình báo MI6 thành lập, ông chuyên
lái chiếc Jaguar vòng quanh Bắc Kinh với biển số 007. (Bạn bè xem ông
giống Walter Mitty hơn là James Bond.) Khi thi thể ông được khám phá vào
mùa đông ấy, trong một căn phòng xập xệ của một khách sạn trên núi có
tên Lucky Holiday Hotel, công an kết luận ông chết vì rượu, nhưng viên
giám đốc công an nói với người Mỹ rằng Heywood được gia đình Bạc Hi Lai
thuê để chuyên giải quyết những khó khăn, và khi vợ Bạc không còn hợp
với ông, bà đã đầu độc ông đến chết.
Bạc là một nhân vật lôi cuốn nhất trong giới lãnh đạo chính trường
Trung Quốc, một nhà dân túy và thích cổ vũ. Khi sự việc xảy ra, trước
đấy tôi đã gặp ông khi ông trên đường thăng tiến, lúc ông đang vận hành
Bộ Thương mại, chờ đến phiên được bổ nhiệm vào Bộ Chính trị. Ông là một
dạng quí tộc Brahmin của Bắc Kinh, một con người cao ráo, thích đứng
trước ống kính, con trai của một lãnh đạo Đảng, với bàn tay mềm mại của
một vị vương quan. Vợ ông, Cốc Khai Lai là một luật sư nổi tiếng, từng
viết sách kể về những thành công tại toà của mình - một “Jackie Kennedy
của Trung Quốc” như một đồng nghiệp của tôi nhận xét. Khi Bạc trở thành
Bí thư Trùng Khánh, ông nhận thấy được cơ hội để vượt qua những đối thủ
cấp tiến và tự cải biến mình trở thành một Huey Long (một chính trị gia
dân tuý của Hoa Kỳ trong những năm đầu thập niên 1930 - ND) của Trung
Quốc. Ông quấn cờ Mao và kêu gọi dân chúng ca những bài hát đỏ như “Đoàn
kết là Sức mạnh” và “Người Cách mạng trẻ mãi.” Ông và ngành công an bắt
giữ hàng nghìn trùm doanh nghiệp, đối thủ chính trị, và những người bị
cho là tội phạm trong một chiến dịch giam giữ và tra tấn mà ông gọi là
“Đánh đổ Xã hội Đen”.
Khi tôi gặp ông, tôi đang đi theo thị trưởng Chicago Richard M. Daley
để xem một nhà vận động chính trị Mỹ phản ứng ra sao trong chính trường
Trung Quốc. Chúng tôi đang ngồi đợi bên ngoài văn phòng của Bạc khi ông
tung cửa bước ra, cười vang và chào tạm biệt với những người khách
trong phiên gặp trước: một phái đoàn châu Phi cao gầy, trông rất thoả
mãn vì đã được đón tiếp nồng hậu. Tôi hỏi một trong những cô gái đang
châm trà những vị khách ấy là ai.
“Sudan”, cô trả lời.
Tại cửa chính, Bạc vẫy tay chào tạm biệt phái đoàn Sudan, xoay bước
và giang tay ôm đón người khách kế tiếp. Trước khi tôi được mời vào văn
phòng, Bạc buông lời đón chào chúng tôi bằng tiếng Anh, một đặc điểm
hiếm có của một quan chức Trung Quốc. Lần cuối tôi thấy ông, ngồi bên
cạnh Daley, một người gốc Nam Chicago cục mịch, Bạc Hi Lai trông giống
như một ngôi sao màn ảnh.
Nếu giám đốc Công an Vương Lập Quân không chạy trốn, thế giới sẽ
chẳng bao giờ biết được điều gì về Bạc Hi Lai và cái thế giới mà ông tạo
ra. Nhưng tiết lộ của Vương là một bất ngờ lớn. Cuối cùng, ông không
được hưởng qui chế tị nạn từ người Mỹ; ông thất thểu bước ra khỏi lãnh
sự quán và bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ, họ truy tố ông tội phản
quốc và nhận hối lộ - một thông điệp rõ rệt cho những ai nghĩ đến việc
đào tẩu. Nhưng người ta không thể che giấu được tiết lộ của ông, và khi
nó rò rỉ ra công chúng, nó bắt đầu phá huỷ những huyền thoại ngay trong
trọng tâm quyền lực của Trung Quốc.
Những tin đồn về Vương đã lan truyền khắp trên mạng cũng như tận các
hẻm phố. Bộ máy kiểm duyệt của Đảng tìm cách ngăn chặn chúng, nhưng
những thiệt hại chính trị đối với Bạc đã quá nặng nề, chỉ trong vòng hai
tháng, ông đã bị cách chức, và chính quyền chuẩn bị đem ông ra xét xử
về tội nhận hối lộ, lạm dụng quyền lực và những tội danh khác. Đảng đã
tuyệt vọng tìm cách cân bằng giữa việc ra vẻ theo đuổi công lý và ngăn
cản việc loan truyền những chi tiết nhạy cảm. Trong một phiên xử lấy lệ
dài một ngày, người vợ Cốc Khai Lai bị kết án giết chết vị doanh nhân
người Anh, dù việc này không làm giảm thiểu mối nghi ngờ của quần chúng;
khi bà ra toà với thân hình đẫy đà hơn trong ảnh, người xem truyền hình
ở Trung Quốc đồn đãi rằng bị cáo là một người khác được trả tiền để
đóng thế vai. (Cho dù chính quyền bác bỏ bao nhiêu, huyền thoại này vẫn
lơ lững; nhà bình luận cấp tiến Chương Di Hoà viết “Điều này nhắc ta nhớ
đến câu chuyện đứa bé nói có chó sói, nó cứ tiếp tục nói dối cho đến
khi chẳng ai tin lời nó và nó bị ăn thịt.”) Việc Bạc bị truất phế mang
một ảnh hưởng sâu sắc. Một mặt, nó đánh đổ hư cấu về hình ảnh người cán
bộ nhà nước khiêm tốn ở Trung Quốc. Trong khi mức lương chính thức của
ông tương đương với 19 nghìn đô la mỗi năm, được biết rằng gia đình họ
hàng của ông có những doanh nghiệp trị giá hơn trăm triệu đô.
Đối với giới doanh nhân nước ngoài, số phận của vị thương nhân người
Anh làm họ bất an. Nó nhắc nhở họ rằng dù Trung Quốc đang phát triển và
lớn mạnh, thói quen băng đảng vẫn tồn tại phía dưới bộ mặt thương mại và
chính trị Trung Quốc, và đôi khi lại ngoi lên. Một thương gia mua bán
sắt vụn người Anh tên Anil Srivastav kể cho tôi nghe một cuộc mặc cả
căng thẳng về một kiện hàng sắt. “Những người này bước vào và kéo tôi
ra. Tôi la lên ‘Cứu!’ nhưng chẳng ai đoái hoài,” ông nói. “Họ bỏ tôi lên
một chiếc xe khách và chở tôi đi.” Sau đó ông được thả ra, lúc đó ông
nghĩ “Tôi chỉ thấy những việc này trong phim ảnh mà thôi.”
Đối với công chúng Trung Quốc, sự sụp đổ của Bạc chứa đựng một thông
điệp mạnh mẽ hơn về những thông tin đang bao vây họ: một tin đồn mà họ
trao đổi trên mạng, bị giới kiểm duyệt bác bỏ và cấm đoán, qua đêm đã
chuyển thành sự thật. Trên mạng Weibo, một người tên Jieyigogjiang viết
“Những tấn công do ‘các thế lực phản động quốc tế' loan truyền nay trở
thành sự thật. Vậy chúng ta nên tin vào những “sự thật” nào khác được
truyền thông nước ngoài lật tẩy?”
(còn tiếp)