Phạm Trần
Bài này không nhằm trả lời câu hỏi tại sao cho đến giờ này, sau khi
Trung Cộng đã rút gìan khoan Hải Dương 981 về nước ngày 15/07/2014, mà
Việt Nam vẫn không dám đưa Trung Cộng ra trước tòa án Quốc tế dù Bác
Kinh đã nhiều lần vi phạm chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam ở Biển
Đông. Đó là trách nhiệm trước nhân dân và lịch sử của đảng và nhà nước
CSVN.
Mục đích bài viết này chỉ tập trung nói về những “sợi dây thòng
lọng” của Trung Cộng đã tròng vào cổ lãnh đạo Việt Nam khiến Hà Nội phải
nằm im trong qũy đạo của Bắc Kinh.
Những tuyên bố “khua chuông gõ mõ” từ phiá Nhà nước Việt Nam chẳng
hạn như câu nói “viển vông” của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại phiên
họp của Chính phủ ngày 16-07-2014 rằng: “Việt Nam luôn kiên quyết đấu
tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp
và các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế” chẳng có nghĩa lý gì đối
với Tổng Bí thư-Chủ tịch Nhà nước Trung Hoa Tập Cận Bình, người đã
khẳng định kiên trì lập trường bất di bất dịch “biển của ta, gác lại
tranh chấp cùng khai thác” với Việt Nam do lãnh tụ “mở cửa” Đặng Tiểu
Bình để lại từ năm 1979.
Lập trường làm chủ hầu hết diện tích 3.5 triệu cây số vuông Biển
Đông mà Trung Hoa gọi là “Nam Hải” (South China Sea)” đã do các chính
phủ Trung Hoa từ thời chính phủ Trung Hoa Dân Quốc năm 1948 (Tưởng Giới
Thạch) tự vẽ mà không cần chứng minh bằng bản đồ “Đường 11 đọan”, hay
còn gọi là “Đường lưỡi bò”. Sang thời Cộng sản Mao Trạch Đông từ 1949
thì Trung Hoa đã tự ý bỏ bớt 2 đọan trong vịnh Bắc Bộ vào năm 1953 mà
không có lời giải thích nào.
“Đường 9 đọan” này được giữ cho đến cho đến nửa đầu năm 2014 thì
Chính phủ Tập Cận Bình lại công bố “bản đồ dọc” có thêm 1 đọan thành 10
vào ngày 25/06/2014 sau khi Trung Cộng đặt gìan khoan dầu Hải Dương 981
vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ 02/5 và rút đi ngày
15/07/2014.
Trong thời gian có khủng hỏang giàn khoan HD-981, rất nhiều chuyên
viên, học gỉa Việt Nam trong và ngòai nước, Quốc tế và cựu đảng viên
Lãnh đạo đã khuyên nhà nước Việt Nam hãy chộp lấy cơ hội vàng này để
kiện Trung Cộng ra tòa án quốc tế.
Rất tiếc Bộ Chính trị đảng CSVN do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng
đầu quyết định mọi việc, vẫn “bình chân như vại”. Theo phân tích của
một số chuyên gia, khuynh hướng phải kiên nhẫn chịu đựng và tiếp tục duy
trì quan hệ tốt với láng giềng “không thể bỏ được Bắc Kinh”, cầm đầu
bởi ông Nguyễn Phú Trọng, chiếm đa số trong tổng số 16 Ủy viên Bộ Chính
trị nên Việt Nam nằm im chịu trận.
Vì vậy khi người ta nghe ông Thủ tướng Dũng nói sẽ sử dụng “sức mạnh
tổng hợp” để “bảo vệ chủ quyền” mà không thấy đưa ra giải pháp cụ thể
nào để thoát lệ thuộc kinh tế vào Trung Cộng thì ai cũng biết ông “chỉ
nói cho có nói” hầu tránh mất lòng người hàng xóm dù bất đắc dĩ nhưng
“qúa hậu hỹ” với cá nhân ông trong 90% vụ trúng thầu các dự án kinh tế
của Việt Nam mà ông đã dành cho các công ty Trung Cộng từ khi lên làm
Thủ tướng ngày 27/06/2006.
Ông Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng biết rõ như
thế vì nếu Việt Nam có hành động chống Trung Cộng, dù chỉ bằng “các
biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế” rất mênh mông thì Trung Cộng sẽ
không ngần ngại đưa ra các biện pháp trừng phạt rất tai hại cho Việt
Nam.
Bởi vì vào lúc gìan khoan HD 981 đang hoạt động thì báo chí, một số
tướng trong Quân đội và nhà bình luận diều hâu của Trung Cộng đã đe dọa
sẽ có biện pháp quân sự và kinh tế trừng phạt Việt Nam nếu Hà Nội theo
chân Phi Luật Tân kiện Trung Cộng ra toà án quốc tế.
Lời đe dọa này đã khiến nhà nước Việt Nam không dám coi thường vì sự
tăng trưởng của kinh tế Việt Nam hòan tòan lệ thuộc vào nguyên liệu và
máy móc phải nhập cảng từ Trung Cộng.
Nhưng quan trọng hơn vì lãnh đạo CSVN không đủ bản lĩnh và nghị lực
để tìm cách kết thân với các nước có quân sự và nền kinh tế hùng mạnh
Tây phương và trong vùng Á châu-Thái Bình Dương, đặc biệt là Hoa Kỳ, để
thoát ra khỏi sự khống chế của Bắc Kinh.
ĐE DỌA CHỒNG CHẤT
Thêm vào đó, trước ngày ông Dương Khiết Trì, Quốc vụ viện Trung Cộng
đến Hà Nội ngày 18/6/2014 để khuyến cáo các ông Nguyễn Phú Trọng,
Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng-Bộ trường Ngọai giao Phạm Bình Minh về
hoạt động của gián khoan HD 981 mà họ Dương nói “hòan tòan nằm trong
vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc” thì Xinhua (Tân Hoa Xã), hãng
tin chính thức của Trung Cộng, đã đưa ra “lệnh 4 không” buộc phiá Việt
Nam phải làm, đó là:
1) Không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông).
2) Không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu
lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về
chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa).
3) Không được lôi kéo các nước khác can thiệp vào Nam Hải.
4) Không được phá bỏ mối quan hệ Việt-Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ.
Và tại cuộc họp với ông Phạm Bình Minh, ông Dương Trì đã trâng tráo
nói, theo tường thuật của Tân Hoa Xã, Xinhua:”Đối với vấn đề trên biển
hiện nay, hai bên cần phải xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai
Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề
liên quan.
Điều bức xúc nhất hiện nay là Việt Nam cần phải đình chỉ quấy nhiễu
đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc, đình chỉ thổi phồng bất đồng, gây
ra tranh chấp mới, xử lý và khắc phục tốt hậu quả vụ bạo lực đánh đập,
cướp bóc và thiêu đốt xảy ra tại Việt Nam cách đây không lâu, đồng thời
bảo đảm an toàn cho các cơ quan, doanh nghiệp và nhân viên Trung Quốc
tại Việt Nam. Mong Việt Nam xuất phát từ đại cục, cùng với Trung Quốc
hành động theo một hướng, thúc đẩy quan hệ Trung-Việt khắc phục khó
khăn, tiếp tục phát triển lên phía trước theo quỹ đạo đúng đắn.”
Đó là áp lực về chính trị, kinh tế thì lép vế ra sao mà khiến lãnh đạo Việt Nam phải “ngậm tăm”?
Báo Thanh Niên cho biết: “Theo Tổng cục Thống kê, năm 2013, có 16
thị trường Việt Nam xuất siêu trên 1 tỉ USD trong đó, Mỹ tiếp tục là thị
trường mà VN đạt thặng dư thương mại lớn nhất với 18,64 tỉ USD. Các
Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất đứng thứ 2 với 3,81 tỉ USD. Tiếp theo
là Anh 3,13 tỉ USD, Hồng Kông 3,06 tỉ USD, Campuchia 2,42 tỉ USD, Hà Lan
2,26 tỉ USD, Nhật Bản 2 tỉ USD…
Tuy nhiên, do nhập siêu từ Trung Quốc quá lớn, tới 23,7 tỉ USD nên
đã “nuốt” gần như toàn bộ thành tích xuất siêu từ các thị trường này.”
(Thanh Niên, 14/05/2014)
Báo này viết tiếp: “Những tháng đầu năm 2014, tình trạng trên vẫn
tiếp diễn. Tổng cục Hải quan cho biết, quý 1/2014 Việt Nam đã xuất siêu
sang Mỹ 4,4 tỉ USD, tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Nhưng cũng trong
quý 1, Việt Nam nhập siêu của Trung Quốc 4,5 tỉ USD.
Điều đáng nói là, với cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc về
gia công và xuất khẩu, chúng ta thực ra đang xuất khẩu giùm nước này và
phần giá trị gia tăng được hưởng rất ít ỏi.
Theo Tổng cục Hải quan, cả năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 17,95 tỉ USD
hàng dệt may, nhưng phải nhập tới 14,81 tỉ USD, trong đó nhập khẩu của
Trung Quốc 5,56 tỉ USD.
Công thức là, Việt Nam nhập nguyên liệu của Trung Quốc về gia công
và xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, EU. Ở hoàn cảnh tương tự là điện
thoại các loại và linh kiện, Việt Nam xuất được 21,24 tỉ USD cả năm 2013
nhưng phải nhập khẩu 8 tỉ USD, riêng Trung Quốc gần 5,7 tỉ USD…
Không chỉ bán hàng hộ, chúng ta còn tiêu thụ công nghệ cho các doanh
nghiệp Trung Quốc. Năm 2013, Việt Nam nhập từ Trung Quốc tới 36,8 tỉ
USD, chiếm tới 28% tổng kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất,
máy móc, phụ tùng, nguyên vật liệu… Riêng 3 tháng đầu năm, nhóm hàng
này nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam với tổng trị giá là 1,58 tỉ
USD, tăng 29,7%.”
Trước đó, theo báo Dân Trí ngày 18/12/2013 thì: “ Theo số liệu đưa
ra tại Hội nghị Quán triệt và hướng dẫn triển khai chiến lược tham gia
các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020 diễn ra ngày 17/12,
Bộ Công thương cho biết, nếu như năm 2001, nhập siêu từ Trung Quốc chỉ
là 210 triệu USD thì đến năm 2012, kim ngạch nhập siêu đã lên đến 16 tỷ
USD.
Như vậy, sau hơn 10 năm, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã
tăng hơn 76 lần. Theo thống kê mới nhất Tổng cục Hải quan, riêng trong
tháng 11 vừa rồi, Việt Nam thâm hụt thương mại với thị trường Trung Quốc
lên tới hơn 2 tỷ USD.”
TRUNG CỘNG NẮM HẦU BAO VIỆT NAM
Lý do nhập siệu tang nhanh vì tất cả nguyên liệu, máy móc để sản
xuất dệt may, giầy dép, hàng điện tử và đồ thông dụng khác đều phải nhập
cảng từ Trung Cộng trong khi Việt Nam không tự sản xuất được, kể cả đồ
phụ tùng thay thế cũng phải mua từ Trung Cộng.
Trung Cộng cũng đã kiểm soát 90% nền kinh tế của Việt Nam, quan
trọng nhất là các nhà máy điện, xi măng, khoáng sản, xây cất đường xá,
bến cảng bên cạnh dự án khai thác Bauxite đang sa lầy, giết vốn nghiêm
trọng ở Tây Nguyên tại hai Tỉnh Lâm Đồng (Nhà máy Tân Rai) và Dăk Nông
(Nhà máy Nhân Cơ).
Tiến sỹ Tô Văn Trường là một trong số chuyên viên đã báo động: “Sau
những vật nài xin ưu đãi nhiều thứ kể cả vốn đầu tư, thuế tài nguyên,
môi trường…hai dự án bôxit Tây Nguyên (Tân Rai và Nhân Cơ) đã phải công
khai thừa nhận từ nay đến năm 2020, Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam
(TKV) sẽ lỗ hàng nghìn tỉ đồng. Riêng Tân Rai năm 2013 lỗ hơn 258 tỉ
đồng, Nhân Cơ còn nặng nề hơn, dự kiến 2015 sẽ lỗ hơn 671 tỷ đồng, v.v…
Thực tế bi đát của dự án này là điều có thể thấy trước và không làm
ai ngạc nhiên. Nói theo nhà Phật thì “quả báo nhãn tiền” đã có ngay chứ
không cần đợi đến kiếp sau.”
Ông cảnh cáo tiếp: “Nguy hiểm hơn, có vẻ như những người quyết định
và đang theo đuổi dự án này đã lỡ ngồi trên lưng hổ rồi, nên cứ tiếp tục
liều mạng bất chấp cái giá mà nhân dân và đất nước phải trả trong điều
kiện nền kinh tế đang suy kiệt hiện nay. Việc cố tình che dấu tội lỗi
thường mang lại hậu quả lớn hơn nhiều tội lỗi ban đầu.” (theo VNCOLD,
17/04/14)
Trong khi đó chuyên gia, Tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn, giám đốc Ban quản
lý dự án đồng bằng sông Hồng của Tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản
VN (TKV) thì nói thẳng: “ Chúng ta phải nói vì sự thật là dù thí điểm
nhưng với hai nhà máy, TKV đã “giúp” bổ sung vào nợ công VN hơn 1,2 tỉ
USD. Nếu cứ “quyết liệt” làm nốt Nhân Cơ, tổng nợ công sẽ tăng thêm gần 2
tỉ USD. Để trả nợ cho hai dự án thí điểm này, gần 140.000 lao động của
TKV, theo tính toán, sẽ phải làm việc cật lực 20 năm may ra mới “xong”.”
(báo Tuổi Trẻ,13/05/2013)
Nhưng tại sao biết là thua lỗ và tương lai rất mù mịt, không kể
những tai họa hồ chứa “bùn đỏ” có thể bị vỡ nguy hiệm cho tính mạng và
tài sản người dân ở hạ nguồn sông Đồng Nai, mà Việt Nam vẫn cứ lao đầu
vào cuộc phiêu lưu?
Lý do vì hai Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (khóa VIII) và Nông Đức Mạnh
(hai khoá IX và X) đã không có bản lĩnh chống lại đòi hỏi của Trung Cộng
để họ tham gia vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, vùng đất chiến lược
quốc phòng của Việt Nam.
Sau đó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định 167 ngày 01 tháng
11 năm 2007 phê duyệt quy hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến,
sử dụng quặng bô xít từ giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025.
Hàng ngàn chuyên viên, đảng viên, cựu Lãnh đạo, Tướng lãnh –kể cả
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nguyên Phó chủ tịch Nước bà Nguyễn Thị
Bịnh–, trí thức, văn nghệ sỹ, kể cả Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám mục
Địa phận Vinh và người dân trong nước là chính đã gửi thư yêu cầu ngưng
hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ vì có hại nhiều hơn lợi kinh tế cho Việt
Nam nhưng nhà nước cứ làm.
Đến khi có quặng ở Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) để xuất cảng thì Trung
Cộng là khách hàng chính mua hàng của Việt Nam để sử dụng với giá thấp
hơn rất nhiều so với tổng số vốn sản xuất ra 1 tấn quặng. Vì khi tính
lời lỗ thì Nhà nước không tính tiền phí tổn làm đường, sửa đường, chuyên
chở nên thua lỗ đã không tránh được như các chuyên viên đã vạch ra.
ÁP LỰC CHÍNH TRỊ
Trên lĩnh vực chính trị, vì bị ép buộc phải cam kết với Trung Cộng
tại Hội nghị Thành Đô năm 1990 để được nối lại bang giao với Bắc Kinh,
theo lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ CSVN tại Bắc Kinh
từ năm 1974 đến 1987, mà Việt Nam không được nhắn đến vụ Trung Cộng
chiếm Hòang Sa năm 1974 và cũng phải im luôn, không được nhắc nhở dưới
bất cứ hình thức nào, kể cả truy điệu những người Việt Nam đã chết trong
2 cuộc tấn công của Trung Cộng qua biên giới từ năm 1979 đến 1989. Có
khỏang 45 ngàn quân và dân 6 tỉnh biên giới đã tử thương, mất tích và bị
thương trong cuộc chiến bi thảm này.
Do đó, trong tất cả các cuộc nói chuyện đôi bên về chủ quyền biển
đảo Trung Cộng luôn luôn nhắc cho Việt Nam nhớ những điều đã cam kết của
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng ở
Thành Đô năm 1990. Ngoài ra Việt Nam còn ở vào thế yếu khi phải tranh
cãi với Trung Cộng về Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhìn nhận chủ
quyền của Trung Cộng tại hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
Mặc dù đã nhiều lần các học gỉa, chuyên viên Việt Nam và báo chí
đảng lý luận rằng Công hàm Phạm Văn Đồng “không hề đề cập đến Hòang Sa
và Trường Sa”, cũng như Công hàm khi đó của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa không có tư cách pháp lý thay mặt cho nhà nước thực sự kiểm
soát 2 quần đảo này là Việt Nam Cộng hòa ở nam Vỹ tuyến 17 nên bảo ông
Phạm Văn Đồng đã thừa nhận quyền chủ quyền của Trung Cộn đối với Hòang
Sa và Trường Sa là hòan tòan không có cơ sở pháp lý.
Phiá nhà nước Việt Nam Cộng sản còn lập luận rằng sở dĩ khi Trung
Cộng chiếm Hòang Sa năm 1974 mà Hà Nội không có phản ứng nào vì khi đó
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang ở trong hòan cảnh đặc biệt cần sự giúp đỡ
của Trung Cộng và các vũ khí của khối Liên Sô và các nước Cộng sản Đông
Âu gửi cho Hà Nội để theo đuổi chiến tranh xâm lăng miền Nam Việt Nam
chỉ có thể đến miền Bắc qua lãnh thổ Trung Cộng cho nên nhà nước phải
chọn nhu cầu “đánh thắng miền Nam để thống nhất đất nước” làm ưu tiên và
cần thiết hơn việc đưa ra lời tuyên bố phản đối Trung Cộng chiếm Hòang
Sa của Việt Nam mà chẳng đi đến đâu.
Nhưng lời bào chữa này của CSVN có xuôi tai không và tại sao Nhà
nước Việt Nam từng bác bỏ lập luận “do lịch sử để lại của Trung Quốc”
mỗi khi họ nói đến chủ quyền của họ trong “Đường lưỡi bò”, đã không kiện
Bắc Kinh ra tòa để thách đố Trung Cộng chứng minh bằng các “văn kiện
lịch sử” hợp pháp?
Vì vậy mà Trung Cộng đã tự do hành động, tuyên truyền như “múa gậy
vườn hoang” tại các diễn đàn trên thế giới, trên báo chí, tài liệu ngọai
giao, sách giáo khoa và bản đồ du lịch, giấy Thông hành, v.v…
Tại Hội nghi an ninh Đối thoại Shangri-La ở Singapore năm 2014,
Phó tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Vương Quán Trung (Wang
Guanzhong) đã oang oang cho rằng:” Bản đồ “Đường lưỡi bò” phản ánh 2.000
năm lịch sử Trung Quốc, và do đó nó có trước Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển. Từ đó, ông Vương cho rằng khu vực này không phù hợp để áp
dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển trong khi công ước này ra đời
để áp dụng chung cho việc giải quyết mọi tranh chấp mà không hề nêu ra
ngoại lệ.” (Tài liệu Bách khoa tòan thư mở).
Còn vụ Tầu tấn công và chiếm 8 đảo và bãi đá ngầm của Việt Nam ở Trường Sa tháng 3/1988 thì sao?
Vẫn theo tiết lộ của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì vào thời điểm
đó, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh (sau làm Chủ tịch Nước), người có
lập trường thân Trung Cộng, đã ra lệnh cho binh lính bảo vể đảo “không
chống lại quân xâm lược Trung Cộng”.
Và khi đó Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười cũng
“ngậm miệng như hến” không dám quyết liệt chống lại Trung Cộng vì, theo
lời một chuyên gia Việt Nam trong vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn nói với tôi
(Phạm Trần) “vì khi đó đảng CSVN sợ cũng sẽ bị tan rã” như các nước Đông
Âu và sau đó là nước Nga Cộng sản nên im luôn để hy vọng sẽ cùng với
Trung Cộng tái lập lại Thế giới Cộng sản”, như đã thấy diễn ra ở Hội
nghị Thành Đô năm 1990!
Nhận định của vị Giáo sư Đại học chuyên về Chính trị Ngọai giao Thế
giới trùng hợp với việc Việt Nam đã “quên luôn” chuyện đem quân lấy lại
những nơi bị mất ở Trường Sa, mặc dù Việt Nam gần Trường Sa hơn Trung
Cộng đi từ đảo Hải Nam xuống.
Cho đến tháng 9/2014 thì Trung Cộng đã biến đảo Gạc Ma thành một căn
cứ quân sự có bến cảng và sân bay ngắn. Trung Cộng cũng đã biến một số
bãi đá tranh chấp chiếm được của Việt Nam và Phi Luật Tân thành các đảo
nhân tạo để chuẩn bị đưa người, quân đội đến sinh sống và đồn trú hầu
xác nhận chủ quhyền và kiểm soát an ninh hàng hải từ Hòang Sa xuống
Trương Sa trong chu vi “Đường lươi bò”.
Trong khi đó, tính về số đảo ở Trường Sa thì Việt Nam kiểm soát lối
25, Trung Cộng và Phi Luật Tân bằng nhau từ 7 đến 8 đảo, Mã Lai Á chiếm 4
và Đài Loan làm chủ đảo Ba Bình, lớn nhất trong quần đảo này. Tuy nhiên
nói về lực lượng quân sự thì Trung Cộng luôn luôn ở vào thế thượng
phong và đang ngày đêm củng cố và khuếch trương những khu vực chiếm
đóng.
NƯỚC BỌT NHẠT NHẼO
Trước thái độ hung hăng đe dọa chiếm đóng chủ quyền biển đảo của
Việt Nam ngày một lên cao của Bắc Kinh, những người cầm quyền Việt Nam
chỉ biết phản đối bằng nước bọt như họ vẫn làm từ trước đến nay
Gần nhất vào ngày 09/09/2014, người phát ngôn Bộ Ngọai giao Việt Nam
Lê Hải Bình nói rằng: “ Theo thông tin xác minh từ các cơ quan chức
năng của Việt Nam, trong các ngày 1 và 14/8 vừa qua, các tàu cá Quảng
Ngãi mang số hiệu QNg 96416 TS và QNg 96674 TS trong khi đang hoạt động
nghề cá bình thường tại khu vực quần đảo Hoàng Sa đã bị một số tàu Trung
Quốc khống chế, ngăn cản và lấy đi một số tài sản.
Nghiêm trọng hơn, ngày 15/8 vừa qua, trong khi đang hoạt động bình
thường tại khu vực quần đảo Hoàng Sa, tàu cá Quảng Ngãi mang số hiệu QNg
96697 TS đã bị hai canô cao su cùng số hiệu 207 của Trung Quốc khống
chế, lên tàu đập phá, tịch thu trái phép một số tài sản và đánh đập các
ngư dân.”
Ông Bình bảo: “Đây là những hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, trái với luật pháp
quốc tế và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC),
Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên
biển Việt Nam-Trung Quốc và đi ngược lại nhận thức chung của Lãnh đạo
Cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư dân.
Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc điều tra và xử lý nghiêm các hành
vi của lực lượng chức năng Trung Quốc đồng thời không để tái diễn những
hành động trên và bồi thường thỏa đáng cho các ngư dân Việt Nam” (TTXVN,
Thông tấn xã Việt Nam).
Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên Trung Cộng đã dã man như
thế mà từ năm 2005 đã có hàng trăm vụ tầu cá và ngư dân VN bị lính và
cảnh sát biển Trung Cộng đán áp đẫm máu, bắt tù chuộc tiền và tịch thu
tài sản ở Biển Đông.
Cũng ngạc nhiên là khi Trung Cộng đối xử với Việt Nam như thế thì
chưa bao giờ thấy Cảnh sát biển Việt Nam dám bắt tầu cá hay giữ ngư dân
Tầu khi họ công khai xâm nhập sâu vào đánh bắt tự do tại các vùng biển
Đà Nẵng, Phú Yên, Vũng Tầu, Côn Đảo, An Giang mà chỉ dám khuyên bảo hoặc
“xua đuổi hòa bình” ra khỏi khu vực.
Thậm chí đã có một thời gian rất dài cho đến khi xẩy ra vụ gìan
khoan HD 981 thì Ban Tuyên Giáo Trung ương mới bật đèn xanh cho báo đài
được phép nói trắng ra “tầu Trung Quốc”, thay vì “tầu lạ” hay “tầu nước
ngòai” đã tấn công, đánh chìm tầu cá Việt Nam, v.v…
Như vậy thì vì đâu mà Nhà nước CSVN phải chịu áp lực đến xấu hổ, bôi
nhọ danh dự của Tổ quốc và xâm hại nhân phẩm của ngư dân Việt Nam như
thế?
Có phải trong số Lãnh đạo đã có những người đã được “nuôi ăn cơm
Tầu” và nhận lương bằng “đồng Nhân tệ” hàng ngày nên mới sợ hãi đến nhục
nhã như vậy?
Hay là như Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đảng Lê Hồng
Anh, Đặc phái viên của ông Nguyễn Phú Trọng đã sang Bắc Kinh làm việc
từ 26 đến 28/8 để “thể hiện nguyện vọng chính trị tích cực thúc đẩy cải
thiện và phát triển quan hệ Trung-Việt của Đảng và Chính phủ Việt Nam “
thì đã đủ chưa để giải thích tại sao “các sợi giây thòng lọng” made in
China đã quấn chặt lấy cổ các Lãnh đạo Việt Nam để họ không thể rút đầu
ra khỏi lệ thuộc Trung Cộng?