Nguyễn Thị Từ Huy
Khi tìm hiểu về một số nhân vật đã thành công trong việc giúp cho dân
tộc của họ thoát khỏi sự thống trị của chế độ phân biệt chủng tộc, chế
độ độc tài hay toàn trị, tôi rút ra nhận xét sau đây:
Nelson Madela, Václav Havel, Aung San Suu Kyi… đều là những người rất
quyết liệt, rõ ràng trong tư tưởng và hành động, đi tận cùng lý tưởng
của mình, chấp nhận tù đày, hy sinh chứ không chịu thỏa hiệp; giữa phát
ngôn và hành động rất thống nhất, họ nói điều họ nghĩ, và làm điều họ
nói. Thậm chí họ có thể bước thẳng tới họng súng không một chút chần
chừ.
Họ không có một trường đại học nào, một viện nghiên cứu nào, một tờ
báo nào, một công ty nào… cần phải giữ cho bằng được, mà để giữ được thì
phải hợp tác (hợp tác cũng có nghĩa là phải nhượng bộ) nên hệ quả là
(dù muốn hay không) phải làm thành một phần của chính quyền. (Nói đúng
ra thì Havel từng tham gia điều hành một tờ tạp chí văn học, nhưng ông
ấy thà để cho nó bị bóp chết chứ không chịu thỏa hiệp với Hội nhà văn
Tiệp Khắc, bởi ông hiểu rằng để giữ cho tờ tạp chí được sống thì tự do
phải chết, sự thật phải chết). Không. Những người đó chẳng có gì để giữ
cho riêng mình, nên đã không hề thỏa hiệp với chính quyền ; nên họ có
thể cứng rắn, kiên định và cống hiến trọn vẹn cho toàn bộ dân tộc của
họ, vì thế có thể làm thay đổi số phận dân tộc của họ.
Mặt khác, phải thấy rằng họ thành công vì được rất nhiều người ủng
hộ, rất nhiều người trong xã hội đấu tranh cùng họ và hy sinh cùng họ.
Ta thử làm một giả định: nếu họ ở Việt Nam thì sẽ thế nào? Căn cứ vào
thực tế hiện nay thì có thể thấy họ sẽ bị đa số trí thức và người dân
coi là quá cực đoan. Và viễn cảnh dễ nhận thấy là người ta sẽ không ủng
hộ họ và không hợp tác với họ. Chẳng hạn, nếu Aung San Suu Kyi là người
Việt Nam, và hoạt động chính trị ở Việt Nam, bà sẽ khó mà nhận được sự
ủng hộ của đa số trí thức và dân chúng như là bà đã nhận được ở Miến
Điện. Sẽ không có cảnh một đoàn giáo sư và sinh viên đại học đến tìm bà
để đề nghị bà ở lại hoạt động cho đất nước, có nghĩa là họ sẽ cùng đấu
tranh với bà và chấp nhận hy sinh cùng bà. Điều tương tự không thể xảy
ra ở Việt Nam, tại thời điểm này. Trái lại, hầu hết giảng viên đại học
Việt Nam sẽ khuyên bà nên trở về Anh mà sống yên vui với chồng con, họ
sẽ khuyên bà « đi đi », « đừng ở lại », vì « Hà Nội không vội được đâu
», vì « cái nước mình nó thế », phải từ từ thôi (dẫu đã từ từ gần một
thế kỷ nay rồi nhưng vẫn phải từ từ) và cuối cùng là vì bà quá cực đoan,
không chịu thỏa hiệp nên không làm được gì đâu (!!!).
Vậy đó, lý do khiến cho các lãnh tụ dân chủ được nêu trên đây và dân
tộc họ thành công trong việc thoát khỏi vòng nô lệ của các chế độ độc
tài hay toàn trị lại trở thành lý do khiến họ sẽ không được đa số dân
chúng ở Việt Nam ủng hộ, nếu họ hoạt động ở Việt Nam.
Đấy cũng là lý do khiến cho các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam không
được (hay chưa được) đa số những người làm công việc trí thức và đa số
dân chúng (tôi phải nhắc lại từ « đa số » này) ủng hộ. Việt Nam không
thiếu những người quyết liệt, dám hy sinh, có thể nêu một vài cái tên
làm ví dụ như Trần Độ, Trần Xuân Bách ; những người bị tù đầy như Nguyễn
Đan Quế, Lê Công Định... Nhưng họ bị cô lập bởi những người xung quanh,
bị tẩy chay, bị « bỏ rơi ». Và để khỏi phải áy náy thì người ta cho
rằng đấy là lỗi của họ, rằng « họ quá cực đoan », vì thế lảng tránh họ
chẳng có gì là xấu. Thậm chí một người chỉ bộc lộ chính kiến một cách ôn
hòa bằng cách viết một số bài ít nhiều mang tính chỉ trích còn bị xem
là cực đoan thì thử hỏi làm sao những người quyết liệt đến mức hy sinh
tất cả mọi thứ như các nhà bất đồng chính kiến từng tù tội lại không bị
xem là quá cực đoan ?
Ý nghĩa của từ « cực đoan » này dĩ nhiên cũng cần được phân định một
cách rõ ràng, ở đây chỉ nêu lên một khía cạnh : khi mà sự quyết liệt, sự
lựa chọn rõ ràng, ý chí sống trong sự thật (các phẩm chất cần có của
thái độ dân chủ, và của những người đấu tranh cho dân chủ) bị xem là cực
đoan, thì cũng có nghĩa là các phẩm chất ưu tú bị nhìn như là nhược
điểm. Nếu « cực đoan » là nhược điểm, thì có nghĩa là « không cực đoan »
mới là ưu điểm. Lập luận sẽ là : « chúng tôi không xấu, mà chúng tôi
không cực đoan thôi, vì thế chúng tôi mới tồn tại được trong xã hội này.
Vì các ông/bà cực đoan nên các ông bà mới phải vào tù, các ông/bà mới
bị đối xử bất công, vậy các ông/bà phải tự chịu lấy một mình, không
trách chúng tôi được ». Với lập luận này thì lương tâm có thể dễ dàng
ngủ yên, để mặc cho cái xấu hoành hành và cái tốt bị vùi dập.
Václav Havel ra tù rồi lên làm tổng thống, Nelson Madela ra tù cũng
lên làm tổng thống, Aung San Suu Kyi sau khi được tự do cũng tham gia
vào chính phủ. Trước đây ở Việt Nam những người cách mạng vào tù, khi ra
tù họ trở thành anh hùng. Còn các nhà bất đồng chính kiến tại Việt Nam
hiện nay sau khi ra tù thì trong con mắt của đa số trí thức và dân
chúng, họ vẫn là tội phạm, chỉ bởi nhà nước coi họ là tội phạm. Vì thế
nên không những không ủng hộ họ mà đa số người dân còn lảng tránh họ, và
không có tổ chức nào dám nhận họ vào làm việc như một người bình
thường. Có nghĩa là những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam, khi ra
tù, không còn có khả năng tập hợp và ảnh hưởng tới công chúng nữa. Cũng
có nghĩa là họ bị vô hiệu hóa về phương diện hoạt động xã hội. Tại thời
điểm hiện tại này, không một người bất đồng chính kiến nào có thể mơ
tưởng một vị thế như Havel từng có, hay Aung San Suu Kyi đang có. Một vị
thế như vậy chỉ có thể có được khi phần lớn dân chúng trong xã hội ủng
hộ họ, hy sinh cùng họ, và đi cùng con đường với họ. (Dĩ nhiên, cũng có
những lý do thuộc về chủ quan của những người bất đồng chính kiến, nhưng
vấn đề này cần được mổ xẻ vào lúc khác.)
Bi kịch của những người bất đồng chính kiến Việt Nam cũng chính là bi
kịch của cả đất nước. Bởi nếu họ không được số đông ủng hộ, thì cũng sẽ
không có ngày đất nước thoát khỏi vòng kìm kẹp của hệ thống toàn trị,
cũng có nghĩa là không thể phát triển được, và nếu không phát triển được
thì nguy cơ mất nước sẽ trở thành hiện thực mất nước.
Trong bài này, tôi đưa ra một nguyên nhân để lý giải cho hiện tượng
vừa nêu ở trên (trong khi luôn ý thức được rằng có nhiều nguyên nhân
khác nữa) : các nhà bất đồng chính kiến không/chưa được ủng hộ rộng rãi,
lý tưởng tự do dân chủ không/chưa được ủng hộ rộng rãi ở Việt Nam, vì
người ta ai cũng còn những thứ « phải giữ ».
Hiện nay, đa số mọi người lập luận rằng, tôi còn việc nọ hay việc kia
phải làm (phải điều hành một cơ quan, một tổ chức…), tôi còn cái ghế
giáo sư phải giữ, tôi còn cái chức trưởng khoa phải giữ, tôi còn cái
chức hiệu trưởng hay viện trưởng phải giữ, con tôi còn có một công ty,
cháu tôi có một nhà máy…, nên tôi phải thỏa hiệp, phải chấp nhận mọi thứ
tệ nạn, nên tôi chưa thể ra khỏi đảng, tôi chưa thể nào tham gia cùng
các bạn (chống Tàu, các hoạt động ngăn chặn các tệ nạn xã hội, ngăn chặn
các chính sách sai lầm của chính phủ, bảo vệ nhân quyền, bảo vệ công
lý, phát triển đất nước…). Nếu ai cũng có cái gì đó để giữ, và ai cũng
không thể làm gì được, vậy thì ai sẽ làm đây ?
Vậy đó, hầu như rất ít người chấp nhận hy sinh chút ít quyền lợi cá
nhân để làm những việc vì quyền lợi chung của cộng đồng. Có những người
như vậy, nhưng hiện đang rất ít.
Trái lại, có một bộ phận không nhỏ những người hiểu biết, có một chút
lương tâm, khi nhìn thấy những nguy cơ tồi tệ của xã hội hiện tại, muốn
làm việc gì đó để ngăn chặn những nguy cơ đó. Nhưng vì họ luôn có cái
gì để giữ cho họ, nên họ chỉ lựa chọn những giải pháp an toàn, những
giải pháp cho phép họ bộc lộ một thái độ, nhưng không làm ảnh hưởng đến
thứ mà họ đang có. Đó là phát biểu vài lời trong các hội nghị, hội thảo,
tọa đàm mà nội dung của chúng chẳng có cách nào đi vào thực tiễn của
cuộc sống ; hoặc viết thư ngỏ, kiến nghị. Điều đó giải thích sự bùng nổ
của các kiến nghị, tuyên bố, kêu gọi… mấy năm gần đây. Nhưng các hình
thức đó chưa bao giờ có hiệu quả, chưa bao giờ đạt được một kết quả cụ
thể nào. Và căn cứ vào tình trạng hiện nay thì hình thức đó sẽ chẳng có
hiệu quả. Dù bản thân tôi cũng thường tham gia ký kiến nghị, nhưng tôi
phải thừa nhận sự thật đó, sự thật thì phải thừa nhận thôi. Ai viết kiến
nghị thì cứ viết, còn ai làm thì cứ làm, chẳng thèm đếm xỉa đến kiến
nghị, tuyên bố hay tuyên cáo, tất cả đều bị xếp xó hết.
Không có hiệu quả, bởi vì, nếu như vào một thời điểm nhất định nào
đó, viết và ký kiến nghị có thể xem là một hành động, có tác động thức
tỉnh và nâng cao nhận thức của một bộ phận người dân, thì lúc này, viết
và ký kiến nghị, tuyên bố... không còn là một hành động nữa, vì tính
chất vô hiệu quả của nó. Như tất cả mọi người đều thấy, gộp tất cả các
kiến nghị từ trước tới giờ cũng không thể nào có được tác động, cả đối
với chính quyền lẫn đối với dân chúng, bằng một chuyến đi xe máy của chị
Bùi Thị Minh Hằng, hay sự ra đời của Văn đoàn độc lập hoặc Hội nhà báo
độc lập. Dĩ nhiên, nói như vậy thì hơi quá cực đoan, nhưng quả thực,
kiến nghị giờ đây chỉ còn có tác dụng an thần đối với người viết và
người ký mà thôi, khiến cho họ cảm thấy là họ cũng đang làm việc gì đó.
Nhưng đã đến lúc phải thấy rằng giờ đây ký kiến nghị nghĩa là không làm
gì cả, chẳng có cái giá nào phải trả và cũng không còn âm vang nữa,
chẳng có bao nhiêu tác động. Trái lại, sau kiến nghị, sự việc còn có thể
trở nên trầm trọng hơn, tồi tệ hơn. (Xin đọc loạt bài « Hiến pháp 2013 –
Sửa nhầm hay đổi thiệt? » và « Hiến pháp vi hiến » của Hoàng Xuân Phú
để thấy được chính quyền đã thể hiện cho các công dân viết và ký kiến
nghị về hiến pháp -trong đó có tôi- thấy rằng quyền lực của chính quyền
mạnh như thế nào và thấy được sự khinh bỉ của chính quyền dành cho họ
như thế nào.)
Nếu muốn thay đổi nhận thức dân chúng, thì những người viết kiến nghị
có thể viết các bài phân tích thấu đáo cho dân chúng hiểu, và đối tượng
hướng tới là dân chúng. Còn với chính quyền, phải có phương thức khác
(dứt khoát hơn, rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn), nếu muốn có
hiệu quả. Nhưng có vẻ như những người chủ trương kiến nghị chưa sẵn sàng
cho những phương thức hành động khác, phải chăng là bởi chính họ cũng
còn những thứ « phải giữ ».
Vấn đề là ở chỗ: nếu ngay cả những người hiểu biết, tạm cho là có ý
thức trách nhiệm, còn không thể từ bỏ vài quyền lợi nhỏ mọn mà mình đang
có (và để có được những quyền lợi đó phải chấp nhận nhập nhèm, thiếu
minh bạch trong công việc, tiếp tay cho bộ máy tham nhũng, và nhìn chung
là chọn thái độ thỏa hiệp với mọi tệ nạn trong cuộc sống, chấp nhận mọi
quyết định sai trái của chính quyền), thì hỏi làm sao mà các lãnh đạo
hiện hành, nhờ sự đảm bảo của đảng độc tài nên được ngồi trên núi vàng,
chi phối và hưởng lợi từ toàn bộ lợi ích khổng lồ của quốc gia, lại có
thể từ bỏ vị trí của họ, từ bỏ đảng của họ được ?
Đó là một logic thống nhất từ trên xuống dưới hiện nay.
(Còn tiếp)
Paris, 3/9/2014
Nguyễn Thị Từ Huy