Chồng bà ngã xuống trong một cuộc chiến chống ngoại xâm. Nhưng số
phận nghiệt ngã của đất nước, cũng là của chính gia đình bà, đã khiến bà
suốt gần 40 năm qua luôn sống trong lặng lẽ, với nỗi đắng cay và lo âu
thường trực.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giải phóng vô. Đất nước thống nhất. Sài
Gòn, cũng như trên toàn miền Nam, “có triệu người vui, cũng có triệu
người buồn”.
Với góa phụ trẻ Huỳnh Thị Sinh, bà không còn tâm trí để mà buồn. Bao
trùm bà lúc này là một nỗi lo sợ. Chồng bà tử trận cách đấy hơn một năm,
mất xác, từng được vinh danh.
Giờ đây, cuộc hân hoan ngoài kia không có phần cho bà, dù chồng bà đã
ngã xuống trong một trận chiến bảo vệ sự trọn vẹn cho mảnh đất Việt Nam
trước cuộc xâm lấn của ngoại bang.
Từ căn hộ trên lầu 2 chung cư Nguyễn Kim, bà lặng lẽ nhìn những đoàn
người chiến thắng đang vui mừng, và những con người thua cuộc đang nhớn
nhác. Rồi bà lôi những tấm hình của chồng ra đốt hết, vì sợ chúng sẽ làm
liên lụy tới cuộc sống của bà, lúc này đang còn phải nuôi ba con gái,
đứa lớn nhất lên 10, đứa bé nhất mới 4 tuổi.
Bà phải sống vì ba đứa con.
“Hình ông xã cô nhiều lắm, nhưng hồi đó đốt hết rồi, vì sợ rắc rối”,
38 năm sau ngày chiến tranh kết thúc, bà Sinh nói với tôi trong căn nhà
tạm cư ở quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, khi tôi ngỏ ý muốn sao chụp
một số tấm hình để làm tư liệu.
“Bây giờ, mong muốn lớn nhất của cô là có căn nhà nhỏ, để nhang khói
cho ông xã. Chứ ở nhờ trong căn tạm cư này, bạn bè ổng tới thăm, muốn
thắp nhang cho ổng cũng không biết thắp vào đâu. Thân xác ổng thì nằm
lại ngoài biển rồi”, giọng bà trầm xuống.
“Đến ngày giỗ ông xã, ngày 19 tháng 1 hằng năm, cô lại bày tạm bàn thờ ra để cúng. Xong xuôi lại cất đi”.
Bỏ mình vì nước
“Hồi đó, dân Bạc Liêu tỉnh lẻ mà lọt vào tầm ngắm của sĩ quan hải
quân đẹp trai thì cũng là kỳ tích đấy chứ!”, tôi đùa, chủ yếu làm cho
không khí bớt nặng nề.
Bà kể, bà sinh ra ở Bạc Liêu, lúc 11 tuổi thì gia đình chuyển lên Sài
Gòn. Hồi ấy bà là nữ sinh trường Nguyễn Bá Tòng. “Ổng gốc Trảng Bàng,
là dân học luật, tướng đẹp lắm. Hai người gặp nhau khi học chung tại Hội
Việt – Mỹ”.
“Tụi cô yêu nhau, rồi cưới. Hồi đó ổng là thiếu ủy hải quân thuộc
Giang đoàn 23 Xung phong. Đi miết. Thường thì mỗi tháng về thăm một
lần”.
Trong căn hộ chung cư ấy, hai ông bà có với nhau ba người con gái: Ngụy Thị Thu Trang, Ngụy Thị Thu Thủy và Ngụy Thị Thu Tuyết.
Đầu năm 1974, khi cô út Thu Tuyết mới lên 3 thì Trung Quốc lăm le xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa.
“Trước đó, ổng về ở nhà suốt 10 ngày, lúc tàu đậu tại quân cảng để vô
dầu, sửa chữa”, bà kể. Một buổi sáng, Thiếu tá Ngụy Văn Thà xách va li
từ biệt vợ con. “Đến chiều ổng lại trở về, nóitàu sửa chưa xong. Nhiều
lần như thế, sau rốt mới đi”. Cuộc khởi hành đầy trúc trắc, như điềm báo
sẽ có chuyện chẳng lành.
Lần cuối cùng ra đi, người cha trẻ Ngụy Văn Thà không kịp hôn cô út Thu Tuyết mới lên 3.
Rồi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra. Hoàng Sa rơi vào tay giặc Trung Quốc;
tàu HQ-10 Nhựt Tảo bị đánh chìm; Thiếu tá hạm trưởng Ngụy Văn Thà bỏ
mình vì nước.
“Ngày 18 tháng 1 năm 1974, nhiều người nghe tin đánh nhau ở ngoải nên
kéo ra cầu tàu quân cảng chờ. Cô không ra được. Nghe người ta bảo chưa
biết tàu mình ra làm sao”, bà Sinh kể. Đến ngày 19 tháng 1, hung tin báo
về, chồng bà, Thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà tử trận ở tuổi 30, mất xác
cùng con tàu HQ-10 Nhựt Tảo mà ông chỉ huy.
“Người ta làm lễ truy điệu long trọng cho ông xã cô. Có cả tư lệnh
Hải quân tới viếng”. Người chồng quá cố của bà được vinh danh, được truy
phong trung tá hải quân dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.
Nuốt nước mắt vào tim, góa phụ 26 tuổi Vũ Thị Sinh gượng dậy tiếp tục
đi làm ở nhà băng Việt Nam Thương Tín để nuôi ba cô con gái bé bỏng.
"Nhiều người biết đến ông xã"
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, góa phụ Huỳnh Thị Sinh đối diện với
một hoàn cảnh mới. Từ chỗ luôn sống với nỗi đau mất chồng, nhưng cũng
cảm thấy được an ủi phần nào và đôi khi âm thầm tự hào khi chồng mình đã
xả thân trong một trận chiến bảo vệ bờ cõi, giờ đây trong bà là một nỗi
bất an thường trực.
Không việc làm, ba đứa con thơ, và quá khứ gia đình gắn liền với chế
độ cũ, bà không biết tương lai sẽ đưa mình đến đâu. Bà sống trong câm
lặng, tủi hờn, xót xa, nhưng không hề oán giận. Bà cam chịu trước sự
xoay vần của số phận, một phẩm chất dễ gặp của phụ nữ ViệtNam.
“Năm 1979, cô vô làm hợp tác xã. Khó khăn lắm con ơi. Hồi đó bán đủ
thứ, rau, cá, xà bông. Thu nhập không đủ sống, thế mà vẫn sống tới bây
giờ”.
Theo thời gian, ba cô con gái họ Ngụy cũng lớn, lấy chồng. “Ba đứa có
chồng cả rồi. Buôn bán lặt vặt, chồng làm công nhân, cũng chỉ đủ sống
thôi”.
Vậy là bà Sinh đã làm trọn bổn phận của bậc sinh thành, khi con cái
lớn khôn, tự lập cuộc sống. Ấy vậy mà khốn khó chưa buông tha.
“Mấy năm trước, chung cư Nguyễn Kim bị giải tỏa. Cô phải ra ở bên
ngoài, chờ ngày tái định cư”. Rời căn hộ nơi bà từng sống với người
chồng quân nhân mấy chục năm về trước, bà ra ở ké trong một căn nhà tạm
cư, chỗ ở của bà chỉ đơn giản là một căn phòng để ngủ. “Mỗi tháng người
ta hỗ trợ 2,8 triệu đồng, coi như tiền thuê nhà. Bạn bè ổng ngàyxưa, lâu
lâu cũng vận động nhau giúp đỡ. Anh em khóa 12 Hải quân Song ngư,những
người còn, nghe hoàn cảnh khó khăn, có giúp chút ít. Lúc cô mổ mắt
thìmột số người cho được năm trăm ngàn”.
Đã hơn bốn năm kể từ khi chung cư bị giải tỏa, bà góa phụ sống cảnh
tạm cư, bất định, mòn mỏi chờ ngày nhận nhà, nhưng không biết bao giờ
cái ngày ấy mới đến. “Người ta không nói ngày nào sẽ được giao căn hộ
mới. Mà khi có căn hộ mới, mình phải đóng tiền trước người ta mới giao
chìa khóa. Cũng không biết có tiền mà đóng hay không nữa”.
“Cô chỉ mong có chỗ ở ổn định, có bàn thờ thắp nhang cho ông xã”. Bà
bảo, mấy năm gần đây, có thêm nhiều người biết đến Hải chiến Hoàng Sa,
biết về sự kiện mà chồng bà tử trận, nên cũng có nhiều người hỏi thăm.
“Hôm rồi có anh chuyển cho cái thơ, nghe nói ở đâu trên mạng. Cô thì
không có biết lên mạng. Đọc thơ, xúc động lắm. Bây giờ nhiều người trên
thế giới đã biết chuyện ổng chết trong hoàn cảnh nào, chết vì cái gì”.
Rồi bà bảo: “Ông xã cô chết vì cái đất nước Việt Nam mình. Ổng là
người Việt Nam, khi đất nước cần thì ổng chết cho đất nước. Cô chỉ nghĩ
đơn giản vậy”.
Bà nói thật giản đơn, nhưng nổi đau, những éo le nghiệt ngã của số
phận bà, thì không hề đơn giản, khi mà định kiến vẫn còn, những ngăn trở
của một quá khứ phân chia bên này - bên kia vẫn còn, 38 năm sau ngày
chiến tranh chấm dứt.
Và có lẽ vì thế, mà sau chừng ấy năm đã trôi qua, bà vẫn mang trong
người nỗi bất an. “Con có viết gì đó thì cũng khéo một chút, đừng làm
người ta giận. Cô ngại lắm”.
Tôi gật đầu, rồi nói với bà: “Hoàng Sa là của Việt Nam. Khi Trung
Quốc xâm lược, thì người Việt Nam mình phải chiến đấu chống lại. Chồng
cô đã ngã xuống trong một cuộc chiến chống ngoại xâm như thế. Đó là sự
thật. Và điều đó sẽ không bao giờ bị lãng quên". Tôi muốn nói nhiều nữa,
để trấn an bà, để bàcó được một chút gì đó gọi là an ủi sau vô vàn
những cay đắng.
Nhưng làm sao tôi, một kẻ hậu sinh và ngoài cuộc, chỉ trong khoảnh
khắc có thể trấn an được góa phụ đã gần 40 năm sống trong âu lo, tủi
hờn?
Người góa phụ trước mặt tôi lúc này đây là hiện thân một bi kịch của
cuộc chiến tưởng chừng như đã trôi vào quá khứ xa lắc, nhưng thực ra,
vết thương của nó vẫn hiện diện trong mọi ngõ ngách, trên từng phận
người. Một vết chém xẻ ngang mình đất nước, cắt chia những con người
Việt Nam, đẩy họ đứng về những chiến tuyến khác nhau, để rồi, nhiều năm
sau khi tiếng súng ngưng bặt, người ta vẫn còn ngại nhau, e dè nhau,
nghi kị nhau. Và làm đau nhau.
Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng người vẫn cách chia.
Nghe câu chuyện của bà, không hiểu sao tôi lại liên tưởng tới lời
Tổng thống Abraham Lincoln trong diễn văn nhậm chức năm 1865, thời điểm
nước Mỹ kết thúc nội chiến: “Không ác tâm với bất cứ ai; luôn nhân ái
với mọi người; và kiên định trong lẽ phải, khi Chúa cho chúng ta nhận ra
lẽ phải, hãy tận hiến sức mình để hoàn thành sứ mạng được giao; băng bó
vết thương của đất nước, chăm sóc các chiến sĩ đã dấn thân vào cuộc
chiến, và những người vợ góa, những trẻ mồ côi – hết sức mình tạo lập và
gìn giữ một sự nghiệp công chính, và một nền hòa bình vững bền, cho
chúng ta, và cho mọi dân tộc.” Ông Lincoln nói về hàn gắn, thế nên, “các
chiến sĩ đã dấn thân vào cuộc chiến”, hay “những người vợ góa”, “những
trẻ mồ côi” được hiểu là thuộc cả hai phe miền Bắc và miền Nam, bên
thắng cuộc cũng như bên thua cuộc.
Chia tay bà, tôi bước qua con hẽm nhỏ sâu hút để ra đường Nguyễn Kim.
Nắng chói chang. Đường phố náo nhiệt người xe. Những lá cờ phấp phới;
những băng rôn rực rỡ; và những dòng khẩu hiệu hừng hực.
“Tinh thần Ngày chiến thắng 30.4 bất diệt”.
Mít Tờ Đỗ