ai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
(Phan Văn Trị)
Sau hôm Nguyễn Chí Đức bị đánh (do đi dự phiên toà “công khai” 
xử Đoàn Văn Vươn), tôi gọi điện hỏi thăm. Dù đang bị đau cả thể xác lẫn 
tinh thần nhưng Chí Đức chỉ nói qua về mình, còn chủ yếu anh đề cập các 
vấn đề của đất nước với một nỗi lo lắng khôn nguôi. Cuối cuộc nói
 chuyện, Chí Đức buồn bã bảo tôi: “Em sợ rằng trong khoảng 5 năm nữa, 
lớp các bác nhân sỹ, trí thức lớn hôm nay sẽ vãn đi hoặc là đã quá già 
mà không có lớp kế tục. Nếu chỉ có những người như bọn em thì dầu có 
hăng hái cũng chẳng mấy tác dụng”.
Nỗi lo của Chí Đức cũng là nỗi lo của tôi. Thực ra thì đội 
ngũ trí thức có tinh thần phản biện, đóng góp vào công cuộc tiến bộ xã 
hội và bảo vệ đất nước vẫn không ngừng tăng lên, nhưng những người có uy
 lực thì vẫn là số ít. Ấy là những bậc trí thức vốn trước đó có một vị 
thế nhất định ở “lề phải”. Khi tham gia “lề trái – lề dân”, họ có sức 
mạnh riêng, nhưng họ lại phải hai lần dũng cảm để bước qua: trước khi 
chấp nhận những phiền toái, tai ương đến với mình, họ phải chấp nhận từ 
bỏ hầu hết những bổng lộc đã có.
Cho nên ngoài số vẫn đang trong
 cơn mê dài (mê danh, mê lợi, mê quyền lực, mê bổng lộc bề trên) đáng 
khinh bỉ, thì thật cũng khó mà trách những người biết cả nhưng lẩn tránh
 trách nhiệm xã hội, rút vào “tháp ngà khoa học” hoặc phiêu du tháng 
ngày.
Cũng từ vấn đề Chí Đức đặt ra, 
tôi bất giác nghĩ đến tình huống nếu bây giờ Trung Cộng tiến hành cuộc 
chiến tranh xâm lược thì liệu dân tộc này đã chắc gì làm được một cuộc 
kháng chiến như triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX? Cuộc kháng chiến ấy, 
theo hình dung của nhà thơ Bế Kiến Quốc:
Thuở ấy non sông lâm trận giặc
 Pháo mã bâng khuâng lạc thế cờ
 Vua thì nhu nhược, triều đình nát
 Lòng ai trung nghĩa hoá bơ vơ.
Thực tế thuở ấy, tuy rằng vua 
(Tự Đức) nhu nhược, tuy rằng kháng chiến một cách cầm chừng nhưng vẫn 
còn là kháng chiến. Đặc biệt thuở ấy có tầng lớp văn thân, sỹ phu là 
linh hồn của cuộc chiến tranh giữ nước, dù có thể không trực tiếp tham 
gia đánh giặc.
Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị 
(1805 – 1880) vốn sức yếu nhưng nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng (1858), đã tự
 chiêu mộ trong đám học trò và thanh nhiên yêu nước được một đội quân 
300 người xin vua đi chiến đấu. Vào đến Huế thì quân Pháp đã rút khỏi Đà
 Nẵng, vào đóng quân ở Gia Định; ông lại xin vào Gia Định nhưng Tự Đức 
bắt ông trở về (vì triều đình đang muốn “hoà” với giặc Pháp).
Trương Định (1820 – 1864) vốn 
chỉ là một quản cơ đồn điền – một chức nhỏ trong quân đội làm nhiệm vụ 
chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang, gặp lúc đất nước có giặc đã tự chiêu 
mộ được 6000 nghĩa binh, đánh địch suốt vùng Gò Công – Tân An. Khi triều
 đình Huế ký hoà ước Nhâm tuất (1862), yêu cầu ông bãi binh, ông đã nói 
một câu nổi tiếng: “Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng
 ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta”[1].
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)
 là nhà thơ chiến sỹ vẫn còn phảng phất hào khí Đồng Nai thời đi mở đất.
 Suốt từ những ngày đầu Pháp đánh Gia Định cho đến khi vua Hàm Nghi bị 
bắt (1888), thơ văn ông là nguồn cổ vũ to lớn đối với cuộc chiến đấu của
 nhân dân Lục tỉnh.
 Phan Văn Trị (1830 – 1910) đỗ 
đạt, tài cao nhưng gặp buổi loạn không ra làm quan, ở nhà dạy học và bốc
 thuốc, đồng thời chiến đấu bằng ngòi bút trong cuộc Nam Kỳ kháng chiến.
 Ông nổi tiếng với 10 bài hoạ để đập lại Tôn Thọ Tường – một trí thức có
 tài nhưng thân Pháp, tuyên truyền cho tư tưởng đầu hàng.
Hoàng Diệu (1828 – 1882) là một
 quan văn, nhưng ngay khi nhận chức tổng đốc Hà Nội (1880) đã ra sức lo 
bố phòng, chuẩn bị đánh giặc. Trong cuộc giữ thành ngày 25-4-1882, ông 
là người trực tiếp chỉ huy chiến đấu cho đến khi vỡ trận (trong khi các 
quan võ dưới quyền ông bỏ chạy ngay từ phút đầu). Trước khi thắt cổ tự 
tận, ông để lại bức Di biểu đầy huyết lệ: “Thành mất không sao cứu được,
 nghĩ thẹn với nhân sỹ đất Bắc lúc sinh thời. Thân chết có quản gì, 
nguyện theo Nguyễn Tri Phương xuống đất”.
Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) 
vừa là nhà Nho, vừa là một người Công giáo, một người hiểu biết thế giới
 phương Tây, cho nên liên tiếp đưa ra các kiến nghị nhằm chấn hưng đất 
nước. Nếu vua Tự Đức nghe theo ông thì không những nước ta thoát khỏi 
cuộc nô dịch của thực dân Pháp, mà có thể thoát cả đêm trường trung 
cổ[2]. Làm phiên dịch trong các cuộc đàm phán giữa triều Nguyễn với thực
 dân Pháp, nắm rõ tình hình quân Pháp, lại nhằm đúng lúc Pháp bối rối 
trong chiến tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871), ông đã vạch ra kế hoạch đánh
 úp Gia Định để lấy lại Nam Kỳ, nhưng tiếc rằng kế hoạch chưa được duyệt
 thì ông mất.
Nguyễn Lộ Trạch (1853 – 1895), 
cũng giống như Nguyễn Trường Tộ, luôn luôn đưa ra kiến nghị mong triều 
đình Huế thực thi cải cách. Trong Thời vụ sách (Kế sách đối với thời 
cuộc), ông đề ra một loạt biện pháp cấp bách để phòng thủ và phát triển 
đất nước, trong đó có việc đưa con em tài giỏi ra nước ngoài học khoa 
học thực nghiệm và cơ khí phương Tây, mở rộng ngoại giao với các nước 
châu Âu, nhất là Đức và Anh để kiềm chế Pháp. Trong khi triều Nguyễn cứ 
loay hoay lo đi chuộc lại Lục tỉnh (Nam Kỳ) thì theo Nguyễn Lộ Trạch, 
Lục tỉnh có thể lấy lại nếu thế nước mạnh lên và nhất là từ nay đừng để 
xảy ra sự việc như Lục tỉnh nữa.
 Sơ qua một vài gương “trung 
nghĩa hoá bơ vơ” như trên để thấy cái không khí bi thương nhưng anh dũng
 của dân tộc ta thời ấy, đồng thời cũng thấy rằng họ không hẳn đã “bơ 
vơ”. Phải nói rằng, dù vua quan nhà Nguyễn hèn nhát, từng bước bán rẻ cơ
 đồ cho ngoại bang, nhưng nhân dân và văn thân, sỹ phu ta đã làm cho 
thực dân Pháp phải lao đao khốn đốn. Chúng phải mất 25 năm (1858 – 1883)
 mới cơ bản chiếm xong nước ta và sau đó còn phải mất gần 30 năm nữa để 
“bình định”. Bởi sau khi nhà vua 14 tuổi Hàm Nghi xuất bôn và xuống 
chiếu Cần vương (1885) thì cả nước lại bùng lên một phong trào kháng 
chiến sôi nổi, mạnh mẽ chưa từng thấy, kéo dài cho đến tận những năm 
cuối cùng của thế kỷ XIX.
Các văn thân, sỹ phu thuở ấy 
đều xuất thân Nho học. Tuy rằng học thuyết Nho giáo đến lúc này đã trở 
nên bảo thủ, bất cập với thời đại, nhưng bù lại, ý thức trách nhiệm với 
đời do Nho giáo hun đúc cộng với lòng yêu nước nồng nàn đã cho họ tầm 
vóc của những người trượng phu của thời đại. Nhiều văn thân, sỹ phu đã 
hy sinh một cách lẫm liệt vì nghĩa lớn.
Còn bây giờ? Cứ tình hình này 
mà không được cải thiện thì khi Trung Cộng tấn công, kịch bản diễn ra sẽ
 hết sức tồi tệ, thậm chí chúng ta hôm nay có thể rất đáng xấu hổ với 
hậu thế. Tôi hình dung đó là cái cảnh trên “thượng tầng” thì “Ngọn cờ 
ngơ ngác trống canh trễ tràng”, còn bên dưới thì binh lính hoang mang, 
lòng dân ly tán. Lấy đâu ra những Trương Định, Nguyễn Tri Phương, Hoàng 
Diệu, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang 
Bích,…?
Tất nhiên, ngày nay nếu “non 
sông lâm trận giặc” thì các nhân sỹ, trí thức không có lợi thế như các 
văn thân, sỹ phu thời trước: tất cả đều tay không tấc sắt. Chỉ có “ba 
tấc lưỡi” làm vũ khí duy nhất. Nhưng “ba tấc lưỡi” ở vào những tình thế 
khẩn cấp nhiều khi cũng không còn giá trị. Vậy thì phải làm gì? Câu trả 
lời là phải tích cực khai dân trí từ bây giờ. Phải cho đông đảo nhân dân
 ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Cách đây hơn 
100 năm, Cụ Phan Bội Châu đã viết: “Nước vốn là gia tài của dân ta. Có 
cái gia tài không gì lớn bằng như thế, có một tổ nghiệp vô lượng vô biên
 như thế, mà ta nỡ bỏ hoang như ruộng đá (…) đem hết trách nhiệm mất còn
 của nước gửi gắm cho một số rất ít người, nào vua nào quan kia. Giặc 
đến chỉ hỏi vua và quan, còn ta chỉ nhởn nhơ trong cái vũng danh lợi của
 loài sên loài nhặng, vui thú trong cái chốn dục vọng ăn uống gái trai. 
Đến nỗi hỏi có nước không, nước còn không lại cứ mơ mơ màng màng không 
biết trả lời ra sao”. Xem thế thì đa số dân ta ngày nay “cổ hủ” biết bao
 khi vẫn nghĩ “đã có Đảng và Nhà nước lo”.
Cũng có một điều mừng là các 
bác trí thức – quan chức cũ đứng về phía “lề trái – lề dân” vẫn tiếp tục
 đông lên, trong đó có cả những “danh” lớn: Nghệ sỹ Kim Chi, TS. Nguyễn 
Đình Lộc (nguyên Bộ trưởng Tư pháp), Thiếu tướng công an Phạm Chuyên 
(nguyên Giám đốc Công an Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (nguyên Uỷ 
viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đảng),… Chẳng 
có ai vận động được các bác cả. Mà chẳng qua là sự phản tỉnh, để rồi 
cuối cùng  trở về với nhân dân, với dân tộc. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có
 những vần thơ thật da diết, đặc biệt bài thơ mới đây: Đất nước những 
tháng năm thật buồn.
– Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
 Trong không gian đầy sợ hãi?
 – Bây giờ lá cờ trên cột cờ Đại Nội
 Có còn bay trong đêm?
 Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
 Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
 Mong gặp một con cá hanh khác?
Giá như sự phản tỉnh ấy đến với
 cả những người đương chức? Thì đất nước lo gì không có những Nguyễn 
Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất 
Thuyết, Phan Đình Phùng,…?
Non sông cứ mỗi ngày lại “lâm trận giặc” (cả “nội xâm” và ngoại xâm) sâu hơn.
 Trước mắt, một mùa hè lại đang
 đến. Chẳng biết hè này Trung Cộng sẽ giở những chiêu trò gì nữa để tiếp
 tục áp chế chủ quyền của ta? Nhưng có một điều biết trước: Dù Trung 
Cộng ngang ngược đến đâu, Đảng và Nhà nước ta vẫn chủ trương “kiên quyết
 xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự 
việc tái diễn” như tướng Nguyễn Chí Vịnh đã hứa với Trung Cộng hồi mùa 
thu 2011, sau khi có hàng loạt cuộc biểu tình vào mùa hè năm ấy.
 Và nhiệm vụ lại đặt trên vai 
các vị nhân sỹ, trí thức. Làm gì đây? Kiến nghị? – Không ai nghe. Biểu 
tình? – Bị cấm ngặt. Nhưng chẳng nhẽ bó tay? Không thể bó tay, bởi vì:
 Một gánh cương thường nặng núi sông.
ĐTT
—————–
 [1] Trong các sách giáo khoa 
ngày trước câu này là : “Triều đinh nghị hoà thì cứ nghị hoà, Định không
 nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm”.
[2] Trong Thiên hạ đại thế 
luận, những điều kiến nghị nhà nước phong kiến của Nguyễn Trường Tộ thật
 gần gũi chúng ta hôm nay. Ví dụ đoạn sau đây:
 “Hiện nay tình hình trong nước
 rối loạn (…) tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho 
quân binh đã mệt mỏi, trong triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui 
lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc 
hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng 
đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác 
phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ 
nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời, ghét kẻ gian tà, 
những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc
 Thắng, Quảng sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách
 nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục 
được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, 
khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây”. Thật đúng như câu nói: “đào 
ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới
 bị sâu đục; nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta
 mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như
 thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy. Than ôi!
 Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên 
thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại 
người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ 
mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. 
Cho nên mới nói: không sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. 
Lòng người đã rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim 
loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó chịu chết mà giữ 
cho”.
 
