Song Chi
 
        
    
    
30 Tháng Tư 1975-30 Tháng Tư 2013. Cuộc chiến tranh Việt Nam kết 
thúc đã 38 năm rồi, nhưng dường như nó vẫn chưa bao giờ thật sự trở 
thành “một chương đã qua, đã xong” trong lòng đa số người dân Việt Nam 
trong và ngoài nước.
 
Những người cùng khổ kiếm không đủ ăn vẫn chiếm đại đa số ở Việt Nam trong khi một thiểu số ăn trên ngồi trốc thì tiền thừa mứa, bận rộn chuyện mua vàng cất giữ, nhập cảng xe hơi bằng máy bay ở cái nước gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa”. (Hình: AFP/Getty Images)
Ðối với “bên thắng cuộc” là đảng và nhà nước cộng sản, cuộc chiến 
tranh ấy tiếp tục được họ nhắc đi nhắc lại vào những ngày lễ 2 Tháng 
Chín, 30 Tháng Tư, cùng vô số ngày kỷ niệm khác, vẫn được tổ chức tưng 
bừng.
Khi những thất bại của mô hình thể chế chính trị hiện tại và trong 
toàn bộ sự điều hành lãnh đạo đất nước của nhà cầm quyền ngày càng không
 thể che giấu trước mắt người dân Việt và thế giới, họ càng cố bám víu 
vào những “hào quang xưa cũ” từ cuộc chiến. Họ càng cố “ăn mày dĩ vãng” 
để níu kéo lòng tin đã cạn kiệt của nhân dân và biện minh cho sự tồn tại
 của đảng, của chế độ.
Ðối với “bên thua cuộc”, lúc đầu chỉ là những người trực tiếp và gián
 tiếp liên quan đến chế độ miền Nam Cộng Hòa, tiếp theo là hàng triệu 
người bỏ nước ra đi vì không chịu nổi chế độ mới sau “giải phóng”... 
nhưng dần dần, cả dân tộc cay đắng nhận ra nhân dân Việt Nam chính là 
bên thua cuộc.
Và khi cuộc chiến càng lùi xa, những sự thật càng được sáng tỏ, cùng 
với sự thối nát của chế độ này ngày càng lộ rõ, thì tất cả nguyên nhân, 
diễn biến của cuộc chiến tranh đã qua cùng với cái kết thúc ngày 30 
Tháng Tư 1975 lại được nhớ lại. Trở thành nỗi day dứt đối với tất cả 
những ai quan tâm đến số phận đất nước, dân tộc.
Những câu nói “Nếu như... giá như...” lại dằn vặt người Việt Nam.
Khi từng ngày từng giờ chứng kiến thực trạng xã hội Việt Nam ngày hôm nay, sau gần 4 thập kỷ thống nhất đất nước.
Khi nhìn sang những quốc gia láng giềng như Thái Lan, Singapore, 
Indonesia, Nam Hàn... mà ở thời điểm cách đây 38 năm, về nhiều mặt còn 
thua hoặc không hơn miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ bao nhiêu, nay đã đi 
được một chặng đường rất dài. Trở thành những quốc gia thịnh vượng và 
khoảng cách với Việt Nam bây giờ là hàng chục năm, thậm chí cả trăm năm.
Những quốc gia Ðông Âu cũ một thời cũng do các đảng cộng sản lãnh 
đạo, nay đã thay đổi rất nhiều chỉ sau hai thập niên đổi sang mô hình tự
 do dân chủ.
Và nhìn rộng ra trên toàn thế giới, để thấy vị trí của Việt Nam ở 
đâu, đời sống vật chất tinh thần của người dân Việt Nam so với người dân
 ở các quốc gia phát triển ra sao.
Có nhiều người tự hỏi vì sao người Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đã kết thúc từ lâu?
Không có gì là khó hiểu. Ðối với nhà nước Cộng Sản Việt Nam, tuy 
tưởng là thắng cuộc nhưng càng ngày họ càng nhận ra họ không thể thu 
phục được nhân tâm “bên thua cuộc” cũng như lòng tin của nhân dân.
Càng ngày họ càng nhận ra họ không thể chiến thắng trong thời bình. 
Không thể đưa đất nước thành một quốc gia giàu mạnh, không thực hiện 
được khẩu hiệu “độc lập-tự do-hạnh phúc”, còn con đường đi lên chủ nghĩa
 xã hội thì lại càng xa vời vợi.
Cho dù mù quáng, bảo thủ đến đâu, tự sâu trong thâm tâm, họ hẳn phải nhìn ra con đường mà họ đi là sai lầm, sự chọn lựa của họ là sai lầm và có tội với đất nước, dân tộc.
Cho dù mù quáng, bảo thủ đến đâu, tự sâu trong thâm tâm, họ hẳn phải nhìn ra con đường mà họ đi là sai lầm, sự chọn lựa của họ là sai lầm và có tội với đất nước, dân tộc.
Lịch sử rồi sẽ phán xét công tội rõ ràng của đảng Cộng Sản Việt Nam.
38 năm sau ngày hân hoan mừng chiến thắng và ở trên đỉnh cao của sự 
kiêu ngạo, giờ đây, những gì người ta có thể nhận thấy ở nhà nước Cộng 
Sản Việt Nam là sự hoang mang, bế tắc, khủng hoảng về mọi mặt.
Ðối ngoại, hèn nhát, bất lực trước âm mưu bành trướng bá quyền xâm 
lược Việt Nam ngày càng lộ rõ của Trung Quốc. Ðối nội, bế tắc, bất lực 
trong điều hành quản lý về kinh tế, xã hội, trong cuộc chiến chống tham 
nhũng, chỉnh đốn đảng, kể cả những cuộc tranh giành đấu đá nhau giữa các
 phe phái để giành ghế.
Sự lúng túng, mất phương hướng còn thể hiện qua hàng loạt động thái 
giả như kêu gọi sửa đổi Hiến pháp, đổi tên nước, trong khi vẫn ra sức 
đàn áp, ngăn chặn mọi tiếng nói đối lập, mọi sự thay đổi theo chiều 
hướng dân chủ hóa trong xã hội.
Ðối với “bên thua cuộc” và cả nhân dân Việt Nam, nếu như sau 38 năm, 
đảng cộng sản đã thành công trong việc đưa đất nước trở thành một quốc 
gia hùng cường, độc lập về chính trị, bảo vệ toàn vẹn toàn lãnh thổ lãnh
 hải, đem lại cuộc sống tự do, no ấm, công bằng cho nhân dân... Có lẽ 
nỗi đau về sự thua cuộc và cái giá quá lớn phải trả cho cuộc chiến sẽ 
qua đi.
Ngược lại, cuộc chiến tranh sẽ tiếp tục còn là nỗi ám ảnh khi Việt Nam vẫn còn là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, khi nhân dân Việt Nam chưa thật sự được hưởng quyền tự do, dân chủ, sự bình an trong đời sống.
Ngược lại, cuộc chiến tranh sẽ tiếp tục còn là nỗi ám ảnh khi Việt Nam vẫn còn là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, khi nhân dân Việt Nam chưa thật sự được hưởng quyền tự do, dân chủ, sự bình an trong đời sống.
Một nguyên nhân khác khiến cho quá khứ khó quên, là từ trong chính tính cách của người Việt Nam.
Không chỉ riêng nhà cầm quyền là những kẻ bảo thủ và không muốn thay 
đổi, dường như cái tính ít chịu thay đổi, thiếu rộng lượng, khoan dung 
cũng nằm trong mỗi người Việt Nam. Cứ nhìn cách người Việt chúng ta hành
 xử với nhau trong đời thường hay quan điểm của chúng ta trước hầu hết 
mọi vấn đề trong cuộc sống thì rõ.
Sở dĩ như vậy cũng bởi vì chúng ta phải sống quá lâu trong một chế độ
 độc tài ngu dân. Ðặc biệt khi chế độ đó lại kết hợp trong nó những cái 
tồi tệ nhất của chủ nghĩa phong kiến hủ lậu, chủ nghĩa tư bản thời man 
rợ và chủ nghĩa cộng sản khát máu, vô thần, như ở Việt Nam hay Trung 
Quốc.
Cái thiện, nhân tính trong từng con người bị hủy hoại đến tận cùng. 
Sự chia rẽ, nghi kỵ, thiếu khoan dung, vô cảm, tàn ác... những sản phẩm 
của một chế độ không tin ở con người, không tôn trọng con người, cũng vì
 thế mà nảy nở sinh sôi.
Ðã nhiều lần nhà cầm quyền nhắc đến cụm từ hòa giải hòa hợp dân tộc. 
Và cứ mỗi khi ngày 30 Tháng Tư trở về, vấn đề này lại được xới lại.
Thiết nghĩ, cách hòa giải hòa hợp hiệu quả nhất không phải nằm trên 
bề mặt ngôn từ hay một vài hành động tỏ ra thiện chí từ phía nhà cầm 
quyền, mà là hãy dũng cảm thay đổi. Dứt khoát chọn lựa một con đường đi 
đúng đắn để vực dậy đất nước khỏi sự tụt hậu, bế tắc, cả nguy cơ đánh 
mất chủ quyền và độc lập vào tay bá quyền phương Bắc.
Một khi Việt Nam đã thoát ra khỏi thời kỳ do đảng cộng sản lãnh đạo 
để xây dựng lại đất nước, vết thương về cuộc chiến tranh tức khắc sẽ 
lành.
Bởi không còn có cảnh cứ vào mỗi ngày 30 Tháng Tư người thì tiếp tục 
ăn mừng ngày giải phóng, ngày chiến thắng, người cay đắng gọi là ngày 
Quốc Hận, Tháng Tư Ðen. Sẽ không còn có những cuộc tranh cãi bất tận về 
cờ vàng cờ đỏ, ai mới thật sự giải phóng ai hay tên gọi đúng nhất của 
cuộc chiến là gì, v.v...
Quá khứ chỉ có thể qua đi khi hiện tại cả dân tộc đã ở trên một nấc thang khác, một bước phát triển khác.
 
