Tạ Duy Anh
Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều
điều nghịch lý như ở Việt Nam: Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành
phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết
đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì;
là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn;
năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức
trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh
“quyền lực Nhà nước” để tư lợi. ..Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền
hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ
đang tiếp tục ngày một phình to?
Không phải là do tôi bịa ra hiện thực đó. Trong một hội nghị có đưa
tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới
30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô
đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói
cách khác, cái số 30% công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái
bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng
ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng trên 800.000
người. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà)
vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công
chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai
phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả
lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người
hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang
phải è lưng chịu đựng, để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.
Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém
chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor...Hay nó có quy
mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland...
Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám
công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì
có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập
nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số
đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với
mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (gần
3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng (2,5 tỉ
USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ
để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc
gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của
“một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều. Theo thông lệ thì
số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để
họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan
Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao
tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại
và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn
phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm
khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào?
Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng
khoảng 10-12 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu
được hằng năm từ ô tô, xe máy với giá phải trả là hứng chịu biết bao lời
chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để
nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7
triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có
ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có
đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục
lạc vàng duy trì liên tục 150.000 buổi, với khoảng 900.000 gia đình nông
dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài
tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.
Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng
chưa chắc đã là lớn nhất. Tai họa của nạn biên chế tràn lan là nó khiến
cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại cồng kềnh, kém hiệu
quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm
gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con
bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng
ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim
sex, tìm cách môi giới chạy chọt dự án. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu
kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì mua sắm
tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày... Nhiều
người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận
dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những
việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng
vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công
vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao
vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến
hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ thăng tiến theo tuổi tác. Kèm với lương
với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên
tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế
cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ
“ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức
phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của
mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng...đến những
người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh,
hạch sách...biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ
hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không
nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.
Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì
ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn
khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn
rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành
phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có
quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu
cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là
một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không
cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc.
Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để
bù lại số vốn đã bỏ ra.
Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn
ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ
bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là
bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây
nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo
đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi
không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái
đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều
đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối
vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ.
Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?
(Rút từ cuốn Làng quê đang biến mất, NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa truyền thông Nhã Nam ấn hành tháng 5-2014.)
Tác giả gửi Quechoa với sự cho phép của Nhã Nam