Diễn tiến
Cách đây 42 năm vào khoảng thời gian này, TT Thiệu cho phát động cuộc
chống đối trên truyền thông, đòi CS phải rút hết về Bắc. Hồi ấy, từ
tháng 11-1972, đài phát thanh, truyền hình bắt đầu cho đọc khẩu hiệu kể
trên “Cộng Sản Bắc Việt phải rút hết về Bắc”. Việt Nam Cộng Hòa cương
quyết đòi CSBV phải rút khỏi miền nam VN sau khi Hiệp Định thành hình.
Trong phạm vi bài này tôi đề cập riêng tới sự kiện nêu trên.
Hòa đàm Ba Lê bắt đầu từ thời TT Johnson 1968 nhưng thực sự bắt đầu
khi Nixon lên nhậm chức Tổng thống 1969, tiến sĩ Kissinger được giao đàm
phán bí mật với Lê Đức Thọ mà người ta gọi là đi đêm.
Nixon- Kissinger thừa hưởng gia tài đổ nát do Johnson-McNamara trao
lại. Về cuộc hòa đàm Ba Lê cựu TT Nixon cho biết phía BV đưa ra những
điều kiện tiên quyết: Mỹ rút đơn phương, Thiệu phải từ chức, lập chính
phủ Liên hiệp, cắt viện trợ quân sự kinh tế VNCH (1). Nếu nhượng bộ coi như Nixon phải đầu hàng CS không điều kiện.
Hà Nội ngoan cố đòi Mỹ phải thỏa mãn những yêu cầu ngang ngược như
trên nhưng tới tháng 9-1972 vì bị thảm bại trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972
họ phải nhượng bộ nhiều điều khoản lớn. Tại buổi họp 9/10/1972 đề nghị
của Hà Nội coi như đã nhượng bộ gần hết những khoản chính mà họ đã đòi
từ mấy năm trước tới nay: không lập chính phủ Liên hiệp, không lật đổ
Thiệu, không đòi cắt viện trợ miền nam tuy nhiên có một vấn đề mà Mỹ
không thể nào đòi được, BV không chịu rút khỏi miền nam.
Ngoài ra về lý do tại sao Hà Nội nhượng bộ, Kissinger cho là nhờ áp lực của Nga mà BV thay đổi lập trường (2).
Hà nội phải nhượng bộ cũng vì họ biết chắc Nixon sẽ tái đắc cử vào ngày
7/11/1972, qua thăm dò ông vượt quá xa đối thủ McGovern. Nếu tái đắc cử
Nixon sẽ cứng rắn hơn nên BV muốn ký sớm trước bầu cử (tháng 11) nghĩa
là ký vào tháng 10.
Kissinger sang Sài Gòn ngày 18-10-1972 sau khi thỏa thuận với phái đoàn BV về bản Sơ thảo Hiệp định Paris .
Ông Thiệu được cố vấn Hoàng Đức Nhã góp ý đã bác bỏ bản Sơ thảo trong
đó CSBV vẫn còn được đóng quân tại miền nam VN. Điều khoản này làm cho
ông Thiệu sợ hãi và nhất quyết chống đối không ký Hiệp định cho tới khi
CSBV phải rút hết về trên vĩ tuyến 17. Kissinger thảo luận tại Sài Gòn
từ 19 tới 23-10 thì về Mỹ, sau mấy ngày từ dọa nạt tới ngọn ngọt dỗ dành
VNCH nhưng ông ta vẫn thất bại. Ông Thiệu nhất định không chịu ký. Sở
dĩ Kissinger nóng lòng muốn ký Hiệp định vào cuối tháng 10 trước ngày
bầu cử Tổng thống 7-11 để lấy phiếu cho Nixon.
Trước ngày về Mỹ ông đánh điện cho Nixon đề nghị ký riêng rẽ với CSBV
nhưng Nixon bác bỏ, ông bảo Kissinger đừng ép Thiệu, không cần ký gấp
Hiệp Định trước bầu cử vì qua thăm dò ông vượt rất xa đối thủ McGovern.
Nixon cũng không muốn mang tiếng vì dùng Hiệp định để lấy phiếu, không
muốn ký Hiệp định mà không có Thiệu, một người bạn đồng minh. Ông không
muốn vội ký với Thọ, một kẻ thù (3)
Ngày 7/11/1972 Nixon đại thắng, tái đắc cử quá lớn với 60.7% số phiếu
phổ thông, hơn McGovern 18 triệu phiếu, Cộng hòa thắng 49 tiểu bang,
Dân chủ chỉ có một tiểu bang , Nixon được 520 phiếu cử tri doàn
(electorale vote) so với 17 phiếu của McGovern, Dân chủ thua to.
Sang tháng 11/1972 hòa đàm không tiến triển gì hơn, ông Thiệu phát
động chống đối bản Sơ thảo Hiệp định, đòi CS phải rút hết về Bắc. Ngày
19/11, Kissinger và Lê Đức Thọ bắt đầu đàm phán trở lại, hai bên không
tiến lại gần nhau được.
Cuối tháng 11-1972, Các vị chức sắc Thượng viện như John Stennis,
Barry Goldwater và Gerald Ford đã nhắc nhở Nixon biết nếu Sài Gòn không
chịu ký kết thì Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh để lấy lại tù
binh đổi lấy việc rút quân và Hạ viện sẽ thông qua việc cắt viện trợ VN
với tỷ lệ 2/1 (4)
Sang tháng 12 tình hình còn bi đát hơn, hòa đàm thêm bế tắc, ngày
13/12 tan vỡ, Lê đức Thọ bỏ Hội nghị không thèm hẹn khi nào trở lại.
Ngày 14/12 Kissinger về Mỹ cùng Nixon và Tướng Haig bàn luận đưa tới
quyết định ném bom BV. Nixon gửi tôi hậu thư cho BV nếu không trở lại
đàm phán sẽ bị oanh tạc.
Hà Nội bỏ Hội nghị vì đánh hơi thấy Quốc hội Mỹ sẽ họp đầu năm 1973,
hy vọng họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh rút quân về nước, đó là lỗi
lầm tai hại. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương Nixon cho oanh
tạc ngoại ô Hà Nội, Hải phòng bằng B-52, chiến địch này gọi là
Linerbacker II kéo dài 12 ngày từ 18/12 cho tới cuối tháng 12/1972. Sau
khi ăn 20,000 tấn bom, Bắc Việt chịu trở lại đàm phán, ngày 9/1/1973 hai
bên đi tới thỏa hiệp chung
Phía VNCH, ông Thiệu vẫn kiên quyết không chịu ký một khi CSBV còn ở
lại miền nam mặc dù TT Nixon hứa hẹn, ngon ngọt dụ dỗ. Ngày 2-1- 1973 Ủy
ban bầu cử Dân chủ Hạ Viện biểu quyết nội bộ tỷ lệ 154/75 cắt viện trợ
Đông Dương để đổi lấy tù binh, hai hôm sau Thượng viện Dân chủ họp nội
bộ biểu quyết tỷ lệ 36/12. Họ đe dọa Nixon và Thiệu nếu không ký được
Hiệp định sẽ thẳng tay trừng trị miền nam VN. (5)
Ngày 9-1-1973, cũng là sinh nhật thứ 60 của TT Nixon, Kissinger từ
Paris điện tín báo tin mừng cho Nixon biết sắp ký được Hiệp định. Ngày
11-1 hai bên bàn thủ tục ký, buổi họp cuối cùng ngày13-1 ấn định ngày ký
kết 27-1-1973, quân BV được ở lại, ông Thiệu không chịu ký. TT Nixon cử
Phụ tá Tướng Haig sang VN nói với ông Thiệu Mỹ sẵn sang ký một mình nếu
VNCH không chịu ký. Nixon nói Kissinger soạn hai bài diễn văn, một cho
trường hợp Thiệu đồng ý và một trường hợp ông ta không chịu.
Ngày 15-1-1973, ông Hoàng Đức Nhã gửi thư cho Đại sứ Bunker nói trong
bản Sơ thảo trước đây Hà Nội ngoan cố không chịu rút về Bắc mặc dù VNCH
đã nhượng bộ. Ngày 18-1 cả Mỹ và BV đều loan tin Hiệp định sẽ ký vào
ngày 23-1, TT Nixon sốt ruột chờ ý kiến của chính phủ Sài Gòn. Nixon
biết rằng nếu không ký kết được Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh
vô cùng nguy hiểm.
Ngày 23-1 ông Thiệu cho Cố vấn điện thoại cho Bunker nói việc in Hiệp định ngày 24-1 không hợp lý. Có dư luận cho biết ông Thiệu sẽ ký Hiệp định sau Tết vì thầy tử vi riêng của ông khuyên không nên ký trước Tết. TT Thiệu từ bỏ chống đối ký kết (6)
Ngày 23/1/1973 Kissnger và Lê Đức Thọ ký tắt, bốn ngày sau 27/1 bộ ngoại giao Mỹ, BV, VNCH, VC ký chính thức Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại Hòa Bình Ở Việt Nam mà ta thường gọi là Hiệp Định Paris .
Ngày 23-1 ông Thiệu cho Cố vấn điện thoại cho Bunker nói việc in Hiệp định ngày 24-1 không hợp lý. Có dư luận cho biết ông Thiệu sẽ ký Hiệp định sau Tết vì thầy tử vi riêng của ông khuyên không nên ký trước Tết. TT Thiệu từ bỏ chống đối ký kết (6)
Ngày 23/1/1973 Kissnger và Lê Đức Thọ ký tắt, bốn ngày sau 27/1 bộ ngoại giao Mỹ, BV, VNCH, VC ký chính thức Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại Hòa Bình Ở Việt Nam mà ta thường gọi là Hiệp Định Paris .
Nhận xét
Cuộc hòa đàm kéo dài từ 1969 tới 1972 vì CSBV ngoan cố đòi hỏi Mỹ và
VNCH phải đầu hàng: Mỹ đơn phương rút, Thiệu từ chức, lập chính phủ Liên
hiệp, Cắt viện trợ miền nam. Sở dĩ như vậy một phần vì phong trào phản
chiến và vì đảng đối lập chống đối như Kissinger đã kể lại trong hồi ký.
“Sau khi Nixon tiếp nhận chức vụ từ những người (tức Dân Chủ) đã đưa
chúng ta can thiệp vào Việt Nam , mới đầu họ đứng giữa sau chống lại
(chúng tôi). Buộc tội Nixon có trách nhiệm với cuộc chiến mà thực ra ông
chỉ là kẻ thừa hưởng rồi công kích Nixon nhân danh những giải pháp này
nọ mà chính họ khi cầm quyền chẳng làm gì cả” (7)
Dân chủ đối lập mới đầu đứng trung lập sau quay ra chống đối Hành
pháp Nixon, họ chống đối từ đầu chí cuối cho tới khi sập tiệm mới thôi.
Nixon nói chính phong trào tranh đấu đã nối giáo cho giặc khiến Hà Nội
không chịu đàm phán nghêm chỉnh (8)
Hiệp định Paris ký ngày 27-1-1973 Hà Nội nhượng bộ những điều khoản
chính nhưng họ vẫn đóng quân ở miền nam. Nhiều nhà nghiên cứu và chính
khách Mỹ chỉ trích Nixon đã mở trận oanh tạc BV long trời lở đất 11 ngày
đêm cuối năm 1972, trút 20,000 tấn bom mà không tống khứ được CSBV về
Bắc. Bản Hiệp định Paris ký ngày 27-1-1973 thực ra cũng chẳng khác gì
bản Dự thảo Hiệp định mà Kissinger mang sang Sài Gòn ngày 18-10-1972 và
đã bị ông Thiệu từ chối ký kết như đã nói trên. Cả hai bản đều không
đuổi được Cộng quân rút về bắc.
Người ta chỉ trích Nixon làm thiệt hại 91 người phi hành đoàn, mất 27
máy bay trong đó có 15 B-52 mỗi cái trị giá 8 triệu đồng…nhưng không
đòi được gì thêm, BV vẫn đóng quân tại VNCH. Dưới đây là một số ý kiến
“Cuộc dội bom to lớn chỉ thay đỗi được chút đỉnh. Cái mà B-52 làm
được thêm tháng Giêng (1-73) chỉ là một chút so với cái từ tháng 10”
Marvin Kalb and Bernard Kalb (9).
Hoặc như Walter Isaason nói
“Dù gây thiệt hại nhân mạng, sự thay đổi rất nhỏ mà cà Nixon và Kissinger không biết nó như thê nào.” (10)
Negroponte, phụ tá Kissinger nói
“Chúng ta oanh tạc BV để họ chấp nhận sự nhượng bộ của ta”
We bombed the North Vietnamese into accepting our concessions
(11).
(11).
Những lời chỉ trích Hành pháp đã ký Hiệp định không thuận lợi, thiệt
hại cho miền nam hoặc đã kéo dài chiến tranh thiệt hại cho Hoa Kỳ. Tác
giả Walter Isaacson chỉ trích cuộc oanh tạc không đem lại một Hiệp định
thuận lợi để tống cổ CSBV ra khỏi miền nam VN. Richard Holbrook, phụ tá
Bộ trưởng ngoại giao đặc trách Á châu sự vụ chỉ trích Hiệp định như đầu
hàng CS Ông nói “Cho quân đội BV ở lại miền Nam chỉ là sự bỏ chạy trá
hình” (12)
Nhiều người Việt Quốc gia kết án ông Kissinger đã ép buộc ông Thiệu
ký một hiệp ước bất bình đẳng để CSBV còn ở lại miền nam. Sự thực không
phải như vậy, ngày 18-10-1972 Kissinger mang bản Dự thảo Hiệp định sang
Sài Gòn nhưng ông Thiệu từ chối không chịu ký.
Sau đó hòa đàm bị trở ngại do VNCH, tháng 12-1972 Hà Nội phá vỡ hòa
đàm, Nixon cho oanh tạc 20,000 tấn bom ép BV trở lại đàm phán và bản
Hiệp định sau cùng ngày 27-1-1973 cũng không đòi được CS rút về bắc.
Cũng không phải Nixon ép ông Thiệu mà Quốc hội Dân chủ đã thúc dục Hành
pháp cũng như miền nam phải ký sớm để tái lập hòa bình, họ đe dọa ra
luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH.
Nixon nói
Nếu chúng ta không giải quyết cuộc chiến nhanh chóng, Quốc Hội
có thể biểu quyết đạo luật chấm dứt chiến tranh vào tháng Một (1973). (13)
Sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, Cộng quân vẫn chiếm giữ một diện tích
lớn dưới khu phi quân sự và tại Cao nguyên, VNCH không đủ lực lượng để
tấn công đuổi họ về bắc. TT Nixon cho biết phái đoàn BV từ chối rút
quân, không thể nào lay chuyển được họ và họ nói không có quân tại miền
nam. Nếu đòi CSBV rút khỏi miền nam thì họ sẽ không chịu ký, sẽ không có
Hiệp định hòa bình, đó là điều mà cà Hành Pháp, Lập Pháp, cả nước Mỹ
không thể chấp nhận được. Theo ý kiến TT Nixon không thể đòi CSBV rút về
bắc.
“Chúng tôi biết không thể nào buộc họ phải nhượng bộ điều này. Có
một châm ngôn ngoại giao là ta không thể thắng tại bàn hội nghị nếu cái
mà ta không thắng ở trận địa” (14)
Ông cũng nói sự tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ thuộc vào
việc BV còn đóng quân ở miền nam nhưng nó phụ thuộc vào việc Hoa Kỳ tiếp
tục viện trợ và với sự đe doạ trừng trị bằng vũ lực (B-52). Hành pháp
Mỹ, Nixon-Kissinger không thể đòi CSBV rút về Bắc như VNCH mong đợi. Hà
Nội có thể bắt chẹt Nixon như vậy vì họ biết cái tẩy Hành pháp đang bị
người dân và Quốc hội (DC) chống đối.
Như Kissinger đã than phiền ở trên về đảng đối lập: chính Johnson,
Tổng thống Dân chủ đã đưa đại binh vào miền nam Việt Nam năm 1965, mặc
dù nắm trong tay nửa triệu quân nhưng họ đã thất bại khiến cho phong
trào phản chiến lên cao chưa từng thấy. Năm 1969 Nixon lên nhậm chức
Tổng thống để hốt cái đống rác kếch sù do Johnson-McNamara để lại: đưa
nửa triệu quân về nước, đàm phán hòa bình trầy da tróc vẩy bốn năm trước
một kẻ thủ quỷ quyệt. Mới đầu Dân chủ trung lập, sau họ a dua với phong
trào phản chiến để quay lại chống đối Hành pháp mạnh hơn ai hết. Một
điều nguy hiểm là họ nắm cả Thượng viện lẫn Hạ viện trong suốt thời gian
có cuộc chiến VN từ 1961-63 cho tới 1973-75 họ đều nắm lưỡng viện Quốc
hội.
Trong thời kỳ Dân chủ can thiệp cuộc chiến VN, họ cũng đã dùi cui
báng súng đàn áp biểu tình phản chiến nhưng nay thất cử nhục nhã, họ hợp
tác với các thành phần chống đối để gây khó khăn không cùng cho Hành
pháp. Chính họ đã không giải quyết được cuộc chiến sa lầy nay lại kết án
buộc tội Nixon không biết giải quyết tình hình bế tắc. Họ và phong trào
phản chiến đã nối giáo cho giặc khiến BV không chịu đàm phán nghiêm
chỉnh tại bàn Hội nghị. Hành pháp yếu vì nội bộ chia rẽ nên Nixon đã
không tống cổ được Cộng quân tại miền nam về bắc.
Sau khi Nixon ký Hiệp định Paris tháng 1-1973, lấy tù binh, đem quân
về nước đảng đối lập chống Hành pháp mạnh hơn trước. Giữa tháng 8-1973
họ ra luật cắt ngân khoản mọi hoạt động quân sự tại Đông Dương, tháng
11-1973 ra luật Hạn chế quyền Tổng thống. (15).
Sau đó Quốc hội Dân Chủ cắt giảm quân viện xương tủy VNCH mỗi năm
khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn hơn 1 tỷ tài khóa 1974 và
xuống còn 700 triệu tài khoá 1975 khiến pháo binh VNCH hết đạn, Không
quân hết săng và miền nam sụp đổ nhanh trong vài tháng (16)
Đảng đối lập lợi dụng thành quả ngoại giao của Nixon hòa với Nga,
Trung Cộng để bỏ rơi đồng minh, một quyết định tồi tàn cho dù phương hại
uy tín của một siêu cường. Không những thế họ đánh phá đồng minh VNCH
tàn bạo y như đánh kẻ thù, thậm chí một vài Dân biểu Thượng nghị sĩ Dân
chủ còn tuyên bố cương quyết không cho một người tỵ nạn VN nào vào Mỹ.
Lưỡng đảng dung hòa bảo thủ và cấp tiến nhưng cũng là con dao hai
lưỡi như ở đây, nó lộng hành sẵn sàng đánh phá đối lập mà không cần biết
gì tới tới uy tín quốc gia.
Như trên TT Nixon nói sự tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ
thuộc vào việc BV còn đóng quân ở miền nam nhưng nó phụ thuộc vào việc
Quốc hội Mỹ tiếp tục viện trợ và cho phép trừng trị bằng vũ lực (B-52).
Nhưng cuối cùng địch không rút về Bắc, Quốc hội Dân chủ cắt giảm viện
trợ xương tủy miền nam VN và không bao giờ Hành pháp còn được trừng trị
đối phương bằng vũ lực.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
—————————————————————-
Chú thích
(1) Richard Nixon, No More Vietnams, trang 152
(2) Marvin Kalb & Bernard Kalb, Kissinger trang 346
(3) Sách kể trên trang 422
(4) Larry Berman, No Peace No Honor, Nixon- Kissinger and Betrayal in Vietnam , trang 200
(5) Sách kể trên trang 221
(6) Sách kể trên trang 232
(7) Henry Kissinger, White House Years trang 227
(8) Richard Nixon, No More Vietnams trang 127
(9) Marvin Kalb and Bernard Kalb, Kissinger trang 422
(10) Walter Isaason, Kissinger A Biography trang 470.
(11) Sách kể trên trang 483
(12) Sách kể trên trang 483
(13) No More Vietnams trang 155
(14) Sách kể trên trang 152
(15) Sách kể trên trang 180, 181
(16) Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471
(1) Richard Nixon, No More Vietnams, trang 152
(2) Marvin Kalb & Bernard Kalb, Kissinger trang 346
(3) Sách kể trên trang 422
(4) Larry Berman, No Peace No Honor, Nixon- Kissinger and Betrayal in Vietnam , trang 200
(5) Sách kể trên trang 221
(6) Sách kể trên trang 232
(7) Henry Kissinger, White House Years trang 227
(8) Richard Nixon, No More Vietnams trang 127
(9) Marvin Kalb and Bernard Kalb, Kissinger trang 422
(10) Walter Isaason, Kissinger A Biography trang 470.
(11) Sách kể trên trang 483
(12) Sách kể trên trang 483
(13) No More Vietnams trang 155
(14) Sách kể trên trang 152
(15) Sách kể trên trang 180, 181
(16) Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471