Tờ The Economist đưa ra một câu trả lời cực kì ngắn gọn. Sau khi
Ronald Reagan tạ thế, tờ báo này đưa ảnh của ông lên trang bìa với dòng
chữ: Người chiến thắng chủ nghĩa cộng sản.
Những người khác cũng nói hệt như thế. Một buổi phát thanh mà tôi có
nghe bắt đầu như sau: “Người ta tin rằng ông là người chiến thắng Chiến
tranh Lạnh”. Sau đó vài phút, một nhà chính trị học ghi nhận hai thắng
lợi chính của Reagan: giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh và tiêu
diệt Liên Xô. Sau đó là hàng loạt những người sùng bái và bình luận viên
tiếp tục tung ra những lời ngợi ca Reagan vì chiến thắng “đế chế của
cái Ác”.
Xin đợi cho một chút. Mọi chuyện không phải đơn giản như thế đâu.
Chắc
chắn là chính sách của Reagan đã góp phần vào việc phá hủy đế chế của
Điện Kremlin mà đỉnh điểm của nó là các cuộc cách mạng chống cộng ở Đông
Âu hồi năm 1989 và sự sụp đổ Liên Xô hai năm sau đó. Nhưng gán cho vị
Tổng thống thứ 40 của Hoa Kì toàn bộ công lao như các phương tiện truyền
thông và các nhà viết tiểu sử của ông đang làm thì cũng chẳng khác gì
gán cho cầu thủ tiền đạo đã đưa bóng vào lưới đối phương tất cả công lao
của trận thắng, thế là ta đã quên công của người đưa bóng cho anh ta,
ta đã quên công của thủ môn cũng như công của những người mang trên vai
mình tất cả gánh nặng của trận đấu.
Các nhà sử học luôn tỏ vẻ coi thường những người qui giản những hiện
tượng phức tạp vào những nguyên nhân đơn lẻ. Liên Xô sụp đổ không phải
vì có một anh hùng cụ thể nào, nhưng nếu tôi phải chọn một người có vai
trò to lớn nhất thì đấy không phải là Reagan, chính sách của ông ta nói
chung vẫn đi theo đường lối ngăn chặn truyền thống của Chiến tranh Lạnh
mà các Tổng thống từ Truman đến Carter đã làm.
Thay vào đó kẻ đã làm đảo lộn lịch sử là Mikhail Gorbachev, một người
đã trải qua tất cả các nấc thang thăng tiến của Đảng Cộng sản Liên Xô
rồi bỗng nhiên quay hẳn sang hướng khác để trở thành nhà cải cách cấp
tiến, rõ ràng là người có vai trò quan trọng hơn.
Bị tác động bởi thời kì “tan băng” ngắn ngủi do Khrushchev khởi xướng
hồi những năm 1950, trước khi Reagan được bầu làm Tổng thống, Gorbachev
đã nhận ra rằng Liên Xô là một hệ thống trì trệ, cần phải cải tổ gấp.
Gorbachev cũng đã làm một việc đáng gọi là dị giáo khi ông từ bỏ mục
tiêu cách mạng thế giới và cuộc đấu tranh giai cấp trên bình diện quốc
tế và chấp nhận “các giá trị nhân bản chung của loài người”. Nhưng quan
trọng hơn là ông đã từ chối sử dụng lực lượng vũ trang hùng hậu có trong
tay nhằm giữ cho Đảng quyền kiểm soát các nước Đông Âu, cũng như kiểm
soát các nước cộng hoà có xu hướng dân tộc chủ nghĩa ngay trong lòng
Liên Xô, điều mà những người tiền nhiệm của ông là Yuri Andropov và
Konstantin Chernenko, nếu họ chưa kịp đi về thế giới bên kia, chắc chắn
sẽ làm.
Nhưng cũng chẳng nên qui tất cả công trạng cho một mình Gorbachev.
Liên Xô tan rã chủ yếu là do các nguyên nhân bên trong chứ không phải
bên ngoài. Trong một bài báo viết vào năm 1947 trên tờ Foreign Affairs,
George F. Kennan cho rằng “siêu cường Liên Xô cũng như chủ nghĩa tư bản
đều mang trong lòng nó mầm mống của sự tan rã, nhưng mầm mống ở Liên Xô
sẽ lớn nhanh hơn”. Đầu những năm 1950, mặc cho những lo lắng về các vụ
thử hạt nhân của Liên Xô, mặc cho chiến thắng của cộng sản ở Trung Quốc
và sự ngóc đầu dậy của chủ nghĩa McCarthy, James B. Conant, Hiệu trưởng
Đại học Harvard (Harvard University President) đã tiên đoán rằng khoảng
năm 1980 “sự phi lí và hệ thống tĩnh tại của Liên Xô sẽ làm cho nó ngừng
hẳn”. Kể ra ông cũng không sai nhiều lắm.
Thực chất là Reagan đã theo đúng đường lối kiềm chế mà cả hai Đảng
Cộng hoà và Dân chủ đều theo đuổi. Vâng, ông có cung cấp vũ khí cho các
lực lượng chống cộng thuộc Thế giới Thứ ba và thường xuyên tuyên bố rằng
ông tin tưởng vào tự do và dân chủ, nhưng các Tổng thống khác trước ông
cũng đã làm như thế. Khi xảy ra khủng hoảng Reagan cũng chẳng sẵn sàng
liều lĩnh khởi động Chiến tranh Thế giới III hơn những người tiền nhiệm
của ông. Ông không dám đối đầu trực tiếp khi Điện Kremlin tiến hành các
vụ đàn áp ở Trung Âu (cũng là việc đáng thông cảm thôi!). Phản ứng của
Reagan khi bị kết án là đã giúp đỡ Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan – những
lời nói hoa mĩ, bày tỏ cảm tình và những biện pháp cấm vận nửa vời chống
lại việc thiết quân luật ở Ba Lan tháng 12 năm 1981 cũng chẳng hơn gì
phản ứng của Eisenhower đối với vụ đàn áp của Liên Xô ở Đông Đức (1953),
ở Hungary (1956) và phản ứng của Kennedy đối với việc xây Bức tường
Berlin (1961) hay phản ứng của Johnson đối việc Liên Xô đổ quân vào Tiệp
Khắc (1968).
“Mr. Gorbachev, xin hãy phá bỏ bức tường này đi!” – lời kêu gọi của
Reagan năm 1987 đã trở thành đề tại thời sự cũng như đề tài của lịch sử
nữa. Nhưng dù những lời đó có gây xúc động lòng người đến đâu, người dân
Đông Âu dưới chế độ cộng sản, qua kinh nghiệm cay đắng của mình, biết
rằng cả kị binh bay lẫn những lời có cánh của Tổng thống Mĩ đều không
thể giải phóng được họ. Đạo diễn các chương trình truyền hình kỉ niệm
đặc biệt có thể lồng hình ảnh Reagan đang gào thét trước bức tường vào
cảnh dân Berlin nhảy múa trên những đống gạch vụn của nó hai năm sau đó,
nhưng nói rằng hai sự kiện này gắn bó nhân quả với nhau thì nghĩa là ta
đã cố tình biến lịch sử thành truyện cổ tích hay ít nhất cũng đơn giản
hoá nó một cách quá đáng.
Năm 1989, nhân dân Đông Âu đã nhận thức được rằng họ phải tự đứng lên
giành lấy quyền tự do. Người ta phải mang mạng sống của mình ra để kiểm
tra giới hạn của học thuyết mới của Gorbachev (các nước cộng sản khác
có thể “đi theo con đường của mình”) và đã phát hiện ra rằng học thuyết
của Gorbachev đã hoàn toàn thay thế cho lí luận của Brezhnev, tức là cái
lí luận biện hộ cho việc đưa quân can thiệp, không cho các nước đào
thoát khỏi “cộng đồng xã hội chủ nghĩa”. Những người tuần hành ở thành
phố Leipzig vào tháng 10 năm đó không thể nào biết được họ có tránh khỏi
số phận của những người biểu tình ở Thiên An Môn mấy tháng trước đó hay
không. Nhiều nhà lãnh đạo Đông Đức lúc đó sẵn sàng làm theo các đồng
chí Trung Quốc!
Liệu những thách thức mà Reagan đưa ra trên khắp thế giới có đẩy
nhanh tiến trình sụp đổ của Liên Xô hay không? Reagan đã giúp đỡ các
mujaheddin (chiến sĩ thánh chiến) ở Afghanistan làm cho Liên Xô nhanh
chóng thất bại và như vậy là làm cho tình trạng bên trong Liên Xô càng
căng thẳng thêm, nhưng dự án này đã khởi sự ngay dưới thời Carter và
được cả hai đảng ủng hộ. Còn việc Reagan ủng hộ lực lượng Contras trong
cuộc đấu tranh chống chế độ Sandinist ở Nicaragua lại tạo ra một vụ bê
bối nghiêm trọng cho chính quyền của ông và lái dư luận khỏi những sự
kiện quan trọng đang diễn ra trong thế giới cộng sản, thí dụ như Trung
Quốc.
Những người hâm mộ Reagan khẳng định rằng chính cuộc chạy đua vũ
trang trong những năm 1980 đã làm Điện Kremlin phá sản. “Bằng cách tăng
cường lực lượng phòng vệ chứ không phải tiến hành xâm lược, Ronald
Reagan đã làm cho Liên Xô sụp đổ”, ông Bob Dole, một cựu thượng nghị sĩ
Đảng Cộng hoà, ứng cử viên Tổng thống đã tuyên bố trên tờ the New York
Times như thế. Biên bản các cuộc họp của Bộ Chính trị ghi nhận nỗi lo
lắng thực sự (mặc dù vô căn cứ) về việc xây dựng tên lửa phòng vệ trong
chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao” và những nhà lãnh đạo sáng
suốt của Liên Xô nhận thức được sự cách biệt ngày càng gia tăng về quân
sự và công nghệ giữa phương Tây, nhất là Mĩ với Liên Xô. Điều đó càng
làm cho Gorbachev thêm quyết tâm loại bỏ sự thù địch của Chiến tranh
Lạnh, quyết tâm tìm cách tiếp cận với hàng hoá và công nghệ của phương
Tây và chuyển các nguồn lực từ lĩnh vực quân sự sang nền kinh tế phục vụ
dân sinh.
Gorbachev còn nhận ra sự phi lí của cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân.
Đến giữa những năm 1980 các siêu cường đã sở hữu tổng cộng hơn 70.000
đầu đạn hạt nhân. Ông hiểu rằng có thể đưa ra những đề nghị hấp dẫn để
khởi đầu đàm phán về hạn chế vũ khí, cho phép thực hiện việc giám sát
tại chỗ hay trao đổi về tên lửa tầm trung mà không ảnh hưởng đến vũ khí
đánh chặn chiến lược của Liên Xô.
Như vậy là cuộc chạy đua vũ trang trong những năm 1980 không làm cho
Liên Xô sụp đổ. Nền kinh tế Liên Xô, vì nhiều lí do khác nhau, đã bị
thối rữa ngay từ bên trong. Những ưu tiên sai lầm của Điện Kremlin – giữ
một bộ máy quân sự khổng lồ trong khi nền kinh tế và đời sống nhân dân
thua xa phương Tây – là một tác nhân làm cho đế chế Liên Xô tan rã.
Nhưng những ưu tiên như thế đã diễn ra hàng chục năm rồi. Bước ngoặt
diễn ra không phải dưới thời Reagan mà là do những ý muốn điên rồ của
Stalin ngay sau Chiến tranh Thế giới II. Mặc dù đất nước còn bị tàn phá
ngổn ngang, lãnh tụ quyết định xây dựng kho vũ khí hạt nhân và giành
danh hiệu siêu cường. Từ đó trở đi lực lượng vũ trang luôn luôn nhận
được những thứ tốt nhất và đã làm biến dạng nền kinh tế.
Việc chú mục vào quân sự còn làm cho người ta đánh giá sai vai trò
của quyền lực “mềm” trong việc lật nhào nhà nước Xôviết. Hàng ngàn tỉ
dollar mà phương Tây chi cho vũ khí và chiến lược ngăn chặn cuối cùng
lại hoá ra không quan trọng bằng lối sống phương Tây, tức là lĩnh vực
chẳng có liên quan gì đến chính sách quốc gia – nhạc, phim ảnh, thời
trang (quần bò xanh), hàng tiêu dùng, “Coca-Cola hoá” – và một tương lai
tự do hơn, giầu có hơn, no đủ hơn. Lối sống phương Tây, nhờ đài phát
thanh, TV, Hollywood, văn học samizdat, máy fax v.v… bắt đầu thâm nhập
vào thế giới cộng sản, tạo ra một trường hấp dẫn mới. Tôi không bao giờ
quên sự háo hức của các thanh niên Nga khi họ giở tờ tạp chí Time mà tôi
mang theo trong chuyến đi đến đó vào những năm 1980, tôi cũng không thể
quên hình ảnh người dân Moskva ăn bánh Big Mac trong cửa hàng McDonald
đầu tiên mở tại quảng trường Pushkin.
Sự trớ trêu của số phận là chính những người mà Reagan không ưa hồi
ông còn làm Thống đốc bang California như những thanh niên hippies,
những người chống chiến tranh Việt Nam, những nhà hoạt động trong phong
trào gọi là “counter-culture” hồi những năm 1960 đã làm ra các bản nhạc,
đã đề xuất ra các tư tưởng và tính cách lập dị lôi cuốn giới trẻ có học
trong thế giới cộng sản, lại là những người có công lớn trong việc làm
cho chế độ cộng sản sụp đổ. Những người có điều kiện tiếp xúc với phương
Tây, kể cả con cái của giới tinh hoa trong bộ máy và các chuyên gia cao
cấp, lại thích Lennon [1] hơn Lenin, thích Mick [2] hơn Marx.
Xin hãy hỏi ngay Pavel Palazchenko, một phiên dịch viên hói đầu và có
ria mép, ngồi cạnh Reagan và Gorbachev mỗi khi họ gặp nhau. Trong những
năm 1960 ông học ở một trường đại học ngoại ngữ danh tiếng ở Moskva.
Sau này ông viết trong cuốn hồi kí xuất bản hồi năm 1997, cuốn hồi kí
rất hay nhưng ít được chú ý, rằng “hệ tư tưởng ngu xuẩn đến mức không
làm cho người ta cười được”. Để giải trí, ông cùng bạn bè góp tiền mua
rượu và mời các bạn gái uống say (lúc đó rượu còn rẻ). “Và chúng tôi
nghe Beatles”, ông nói.
“Chúng tôi thuộc những bài hát đó… Tôi có giọng thế này phần lớn là
nhờ Beatles chứ không phải thày giáo dạy phát âm đâu. Nhưng tôi và những
người bạn đồng trang lứa của mình còn nợ họ một vài thứ nữa. Trong
những năm đen tối dưới thới Brezhnev (1964-1982) họ không chỉ là nhạc
giải trí. Họ đã giúp chúng tôi tạo ra thế giới của riêng mình, một thế
giới khác hẳn với thế giới chán phèo và vô nghĩa của những nghi lễ càng
ngày càng giống thời Stalin hơn… Tôi tin rằng thời đó ít người trong
chúng tôi tìm được hứng khởi nhờ các tác phẩm của Andrei Sakharov (một
nhà vật lí và bất đồng chính kiến nổi tiếng) vì chúng tôi chưa đủ sức
hiểu được tư tưởng của ông. Beatles đã giúp chúng tôi lặng lẽ chia tay
‘hệ thống’, trong khi vẫn thực hiện phần lớn các yêu cầu của nó.”
Không phải tất cả các nhà lãnh đạo Liên Xô đều nhận ra những ảnh
hưởng có tính cách phá hoại như thế. Tháng 12 năm 1980, một tháng sau
khi Reagan được bầu làm Tổng thống, Andropov, người đứng đầu KGB lúc ấy
đã gửi cho Ban Chấp hành Trung ương một báo cáo mật. Đấy không phải là
báo cáo về cuộc bầu cử mà là báo cáo về vụ sát hại John Lennon. Andropov
nói rằng “Trong nhiều trường đại học ở Moskva đã xuất hiện những tờ rơi
kêu gọi tổ chức diễu hành tưởng niệm cựu thành viên Beatles”. “KGB đã
thi hành những biện pháp cần thiết nhằm xác định danh tính những kẻ tổ
chức vụ tụ tập và vẫn kiểm soát được tình hình”, ông ta hứa với lãnh đạo
Đảng như thế.
Nhưng hoá ta KGB không kiểm soát được tình hình. Cuối những năm 1980
các sân khấu rock bí mật bắt đầu xuất hiện trên mảnh đất của “chủ nghĩa
xã hội hiện thực”. Sau khi toàn bộ ngôi nhà xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ,
những nhân vật đối lập cũ trong khối Warszawa, như Vaclav Havel đã chào
đón (và đôi khi dựng tượng) cho những người như Frank Zappa, Pink Floyd,
Lou Reed và James Dean.
Reagan đã xô những bức tượng vốn đã rung rinh của Marx và Lenin,
nhưng có lẽ ông không đóng vai trò chính, ông chỉ có vai trò phụ trợ.
Vẫn còn quá sớm để khẳng định bất cứ điều gì một cách chắn chắn. Việc ca
ngợi quá đáng vai trò của Reagan trong vụ đạp đổ con rồng Liên Xô nói
về ông thì ít mà nói về chúng ta thì nhiều. Hỗn hợp tình cảm, tâm trạng
hân hoan sau Chiến tranh Lạnh, quá nhiều thông tin về sự kiện chỉ chứng
tỏ thói quen coi thường sự phức tạp của thế giới, thói quen đưa các vấn
đề thế giới vào các sơ đồ đơn giản, đấy cũng là một thói quen nguy hiểm
của người Mĩ chúng ta.
————
James Hershberg là phó giáo sư lịch sử và các vấn đề quốc tế tại
George Washington University và là cựu giám đốc của dự án về chiến tranh
lạnh tại Woodrow Wilson Center
[1]John Lennon, Beatles
[2]Mick Jagger, Rolling Stones