Phạm Đoan Trang
Bản tiếng Anh ở phía dưới. Scroll down for the English translation.
Như đã nói trong bài trước,
“hơn ai hết, Đảng – mà đại diện ở đây là bộ máy tuyên giáo và an ninh –
ý thức được sức mạnh của sự bí mật. Công khai, minh bạch là tự làm mất
mặt mình, tự giết mình”. Chính vì vậy, để bảo vệ chế độ, điều tối quan
trọng là phải bảo đảm… bí mật, từ bí mật công tác đến an ninh quốc gia.
Để làm được điều đó, nguyên tắc căn bản chỉ là “làm tốt công tác tư
tưởng” và quản lý báo chí thật chặt chẽ, sát sao.
Nhưng đến khi Internet và nhất là mạng xã hội xuất hiện, thì nhiệm
vụ trở nên khó khăn hơn. Từ đây, bộ máy tuyên giáo và an ninh vừa phải
quản lý báo chí chính thống, vừa phải kiểm soát truyền thông “phi chính
thống”, tức thế giới mạng.
Duy trì chế độ thẻ nhà báo
Một phương thức tinh vi để kiểm soát báo chí dưới mỹ từ “quản lý” là
sử dụng chế độ thẻ nhà báo. Sáng kiến này được áp dụng đã từ lâu, tới
năm 2007 thì được luật hoá trong một thông tin gọi là Thông tư số
07/2007/TT-BVHTT hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi thẻ nhà báo, Bộ Văn hóa -
Thông tin, ngày 20/3/2007. Theo đó, người được xét cấp thẻ nhà báo phải
bảo đảm các điều kiện và tiêu chuẩn sau đây:
a) Tốt nghiệp đại học; trường hợp là người dân tộc thiểu số đang
công tác tại cơ quan báo chí miền núi hoặc chương trình phát thanh,
truyền hình tiếng dân tộc thiểu số phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông trở lên;
b) Có thời gian công tác liên tục theo chế độ biên chế hoặc hợp đồng
dài hạn tại cơ quan báo chí đề nghị cấp Thẻ từ ba năm trở lên, tính đến
thời điểm xét cấp thẻ;
c) Hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan báo chí phân công;
d) Không vi phạm quy định về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp báo chí;
không bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên trong thời hạn 12 tháng
tính đến thời điểm xét cấp thẻ;
e) Ðược cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, Sở Văn hóa -
Thông tin (đối với báo chí các tỉnh, thành phố) và Hội Nhà báo cùng cấp
thống nhất đề nghị cấp thẻ nhà báo.
Các điều kiện trên (trừ khoản a) đều khó thực hiện trong thực tế.
Xét bản chất, nghề báo là nghề có tính lưu động cao, các phóng viên
“nhảy việc” gần như liên tục, khó mà có người “công tác liên tục theo
chế độ biên chế hoặc hợp đồng dài hạn (…) từ ba năm trở lên”. Cho nên
khoản b là khó đáp ứng. Các khoản còn lại thì đương nhiên chỉ nhằm
khuyến khích các phóng viên biết chấp hành, chịu khó tuân theo chủ
trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; không có chỗ cho những phóng
viên sáng tạo, nhiệt huyết, có tinh thần phản biện và luôn luôn sẵn sàng
“xé rào”, chống lại định hướng của Đảng. (Xin lưu ý, đạo đức nghề
nghiệp báo chí, theo quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
Việt Nam, đưa ra tại Đại hội VIII Hội Nhà báo là: “Tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.)
Riêng khoản e, “Được cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, Sở
Văn hóa - Thông tin (đối với báo chí các tỉnh, thành phố) và Hội Nhà báo
cùng cấp thống nhất đề nghị cấp thẻ nhà báo” còn cho thấy sự nhập nhằng
giữa khu vực nhà nước và khu vực xã hội dân sự. Báo chí về bản chất là
một khái niệm thuộc về xã hội, và cơ quan báo chí không phải là cơ quan
thực thi công vụ. Nhà nước không thể đứng ra cấp thẻ nhà báo để định
danh cho người tiến hành hoạt động nghề nghiệp này; nói cách khác, Nhà
nước không được lấn sân, chiếm lấy một lĩnh vực không phải của mình.
Nhưng Nhà nước lại cứ giành lấy quyền ấy, thậm chí còn cẩn thận quy định
rõ trong luật, rằng báo chí có nhiệm vụ “tuyên truyền, phổ biến đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu
văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế giới theo tôn chỉ, mục
đích của cơ quan báo chí…”.
Chính điều này dẫn đến việc nhiều nhà báo buộc phải “chấp nhận sự
định hướng của một lực lượng mà năng lực truyền thông hẳn nhiên là thua
xa họ” (“Giọt nước mắt của lề phải”).
“Nhà báo tự do” = phản động
Nhiều người thường nói rằng thẻ nhà báo chỉ là một cái thẻ, không
quan trọng. Nhưng trên thực tế, nó rất quan trọng, vì trong luật pháp
cũng như trong nhận thức của xã hội, nhà báo phải là người “đang hoạt
động hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được
cấp thẻ nhà báo” (Điều 14 Luật Báo chí).
Người chưa/không được cấp thẻ thì không được công nhận là nhà báo.
Từ đây dẫn đến việc họ đương nhiên bị gạt ra khỏi bất kỳ sự kiện nào mà
ban tổ chức, cơ quan an ninh, chính quyền… không muốn bị báo chí biết. Ở
rất nhiều hội thảo, hội nghị, sự kiện chính trị - xã hội, ban tổ chức
luôn đặt điều kiện “phải có thẻ nhà báo” mới gửi giấy mời. Bằng cách
này, ban tổ chức đã loại ra ngoài đông đảo phóng viên, là những người
hoạt động báo chí y hệt như nhà báo nhưng không được cấp thẻ.
Công an, an ninh, hơn ai hết, là những người được quán triệt chặt
chẽ rằng phải có thẻ do Nhà nước cấp mới được gọi là nhà báo, điều này
đồng nghĩa với việc tất cả những người đang hoạt động báo chí mà không
có thẻ thì đều là “phóng viên tự do”, “tự xưng/ mạo nhận”, và đều có thể
bị ngăn chặn triệt để, không được phép tiếp cận thông tin. Ngày
30/10/2012, khi phóng viên Truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam,
Huyền Trang, bị công an đưa về đồn thẩm vấn, cô nói cô là phóng viên.
Nhân viên công an liền quát: “Ai công nhận chúng mày là nhà báo hả? Thẻ
tác nghiệp của chúng mày đâu? Một lũ ăn không ngồi rồi, rồi rủ nhau phản
động hả?”.
Riêng trong hai năm 2011 và 2012, trên cả nước đã xảy ra hàng chục
vụ phóng viên bị đánh. Thủ phạm là lưu manh côn đồ, bảo vệ, vệ sĩ, công
an, và cả dân thường. Nhưng trong tư duy của chính quyền, nạn nhân nếu
chưa có thẻ thì không phải là nhà báo, do vậy sự việc không nghiêm trọng
tương đương với “hành hung nhà báo.”
Với blogger, tình hình còn tệ hại hơn: Họ không những không được
pháp luật bảo vệ mà ngược lại, còn bị xử lý. Điếu Cày, Tạ Phong Tần, và
tất cả các thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do đều “không phải là
nhà báo”, nên bị cơ quan công an, an ninh xua đuổi, đàn áp thẳng tay khi
họ có mặt tại các điểm nóng để đưa tin, dù chỉ là lên blog của họ.
Một mặt, Đảng và Nhà nước xiết chặt việc “nắm tư tưởng”, “định
hướng” báo chí chính thống. Mặt khác, Đảng và Nhà nước nhất định không
công nhận blogger là nhà báo.
Làng báo chính thống và blog chính trị ở Việt Nam đều biết đến
Trương Duy Nhất, người từng bỏ nghề báo để trở thành blogger, chủ trang
mạng “Một góc nhìn khác”. Sau khi ông Nhất bị bắt ngày 26/5/2013, nhà
báo Đức Hiển (Facebooker Bố Cu Hưng) bình luận trên Facebook cá nhân
rằng “vấn đề của một nhà báo là phải có thông tin. Khi thiếu khả năng
hoặc cơ hội tiếp cận thông tin thì góc nhìn nếu khác là chửi đổng mà nếu
giống là a dua…”.
Cộng đồng FB và blog chính trị rộ lên một đợt chỉ trích nhà báo Đức
Hiển. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ của chính quyền thì ông Đức Hiển nói
đúng. Khả năng và cơ hội tiếp cận thông tin chính là cái khác biệt giữa
nhà báo và blogger, giữa nhà báo chính thống và nhà báo tự do. Blogger
không thể nào có mặt ở các sự kiện chính trị-xã hội quan trọng do Nhà
nước tổ chức, không thể nào tham dự hội thảo, hội nghị quốc gia, quốc
tế, không thể nào tiếp cận quan chức cấp cao của Đảng và Nhà nước. Và
chính quyền ý thức được rằng phải khoét sâu vào điểm yếu ấy của blogger
thì mới giữ nền báo chí công dân ở thế yếu hơn báo chí cách mạng được.
Song song với đó là việc tạo cuộc chiến vô hình “lề phải – lề trái” để
ngăn chặn mọi sự hợp tác, bắt tay nhau giữa nhà báo quốc doanh và nhà
dân báo.
Thay cho lời kết
Để kết thúc hai bài viết sơ lược về tự do báo chí kiểu Việt Nam,
xin sử dụng một đoạn hội thoại – thẩm vấn điển hình cho tư duy của chính
quyền về báo chí và hoạt động của nhà báo trong chế độ xã hội chủ
nghĩa:
AN: Anh Y. ạ, hiện chúng tôi đang làm rõ động cơ, mục đích đằng sau một số bài viết trên blog của anh.
Blogger: Tôi phản đối việc bắt giữ tuỳ tiện. Như tôi đã nói, các bài
viết của tôi chỉ có mục đích xây dựng, đóng góp cho Đảng một ý kiến
phản biện ôn hoà.
AN: Không ai cấm anh phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng. Nhưng anh có thể chọn những cách khác, hiệu quả hơn.
Blogger: Tôi không đồng ý. Thế nào là hiệu quả hơn? Tôi là blogger,
tôi nói lên ý kiến của mình qua công cụ blog của tôi thì sao?
AN (cười độ lượng): Đấy, anh lại thế rồi. Tôi đã nói rồi, không ai
cấm anh phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng cả. Nhưng mình là trí thức,
là người có ăn có học, nói gì thì nói, phải có cơ sở anh ạ, phải có lý
có lẽ, có thông tin, thuyết phục, chứ không phải thích gì nói nấy. Cứ
thích thì nói nấy thì anh thành ra mấy cái đứa blogger phản động trên
mạng à?
Blogger: Tôi là nhà báo. Tôi có cách tiếp cận và xử lý thông tin của tôi.
AN (nhấn mạnh): Anh không phải nhà báo. Anh làm gì có thẻ tác nghiệp, hả? Nhà báo tự do à? Điếu Cày à?
Blogger: Nhà báo thì sao mà không là nhà báo thì sao? Không lẽ chỉ
nhà báo mới được viết? Mà luật nào cấm blogger được viết? Hiến pháp của
chúng ta cũng đã quy định…
AN (ngắt lời): Khổ. Anh lại cực đoan rồi, anh Y. Tôi đã nói rất rõ
là nói gì thì nói, viết gì thì viết, phải có thông tin xác thực, lập
luận thuyết phục trên cơ sở xây dựng anh ạ. Anh xưng anh là nhà báo thì
lại càng phải thế, phải có trách nhiệm với những gì mình viết chứ. Anh
xem lại các bài viết của mình mà xem, toàn là những bài hết sức cực
đoan, phiến diện vì thiếu thông tin.
Blogger: Thế anh nói “có những cách hiệu quả hơn để đóng góp ý kiến” là những cách gì?
AN: Nếu thực sự anh có tinh thần xây dựng, muốn đóng góp ý kiến xây
dựng Đảng thì anh sẽ tìm ra cách. Thiếu gì cách. Ví dụ – đây là tôi lấy
ví dụ thôi nhé – anh có thể gửi thư riêng đến các đồng chí lãnh đạo cao
cấp. Chứ ai lại đi đưa lên blog công cộng như thế cho mấy đứa trên mạng
nó đọc, rồi nó lợi dụng, nó bàn ra tán vào này nọ. Mình thấy nó hưởng
ứng mình, mình tưởng thế là hay, chứ thực ra bọn nó chỉ lợi dụng mình
thôi. Anh xem đấy, đến lúc anh bị bắt thì đứa nào giúp anh? Từ giờ phút
này là chỉ có anh mới cứu được anh thôi, anh Y…
A police state: Police standing outside the trial of legal activist Cu Huy Ha Vu, 2011. (source unknown)
* * *
* * *
THE VIETNAMESE STYLE OF MEDIA CONTROL (PART 2)
As written in the first part, “more than anyone else, the Communist
Party – herein represented by the propagandists and public security
machinery – is aware of the power of secrecy. Transparency only means
self-defamation and suicide.” Therefore it is crucial to ensure secrecy
in a variety of areas, ranging from work secret to national security.
This can be done via the implementation of a basic principle, that is
“to do good in propaganda of the communist ideology” and to keep the
press under tight surveillance.
With the advent of the Internet and especially social media
networks, however, the task becomes more difficult. Given such context,
the propaganda and public security machinery must deal with controlling
official media and, at the same time, suppressing the unofficial one,
ie. the Internet media.
Press cards
A subtle measure taken by the Party to control the media in the name
of “media management” is to maintain the so-called “press card” (not
press badges which are issued to journalists covering a specific event).
A Vietnamese press card is granted by the Ministry of Information and
Communication to a reporter only when he/she meets a set of requirements
imposed by a circular titled 07/2007/TT-BVHTT, including “not to be
rebuked in the previous 12 months” and “to be recommended by the media
agency, the line ministry, the Department of Culture and Information and
the Association of the Press.” All the requirements are hard to meet,
especially for reporters who tend to criticize the Party.
In particular, the requirement that the reporter must be
“recommended by the media agency, the line ministry, the Department of
Culture and Information and the Association of the Press” manifests the
vague boundary between the state sector and civil society. The press per
se is part of the realm of civil society, and the media agency is not
an agency performing official duties.
Accordingly, the government is not entitled to grant press cards to
identify those who work in media area; in other words, it cannot make
invention in an area beyond its jurisdiction. However, the government in
reality keeps exercising this authority, even prescribes that “The
media operating within the Socialist Republic of Vietnam is the
essential means of providing public information in relation to social
life; is the mouth piece of Party organizations, State bodies and social
organizations, and a forum for the people” (Article 1 on role and
function of the media, Vietnam’s Law on Media, 1999) and the media must
“disseminate, publicize and contribute to the establishment and
protection of the strategies and policies of the Party, the laws of the
State, and the achievements of the country and the world in accordance
with the guiding principles and aims of media organizations; to
contribute to political stability” (Article 6 on the responsibilities
and rights of the media).
As a result, a great many journalists are subject to the direction
of the machinery of government whose capacity of communication is
decidedly inferior to them.
“Free journalist” = reactionary element
Some may say press card itself is no more than a card, thus it is of
not much significance. However, press cards are very important. A
journalist is someone “who is granted a press card” in law as well as in
social perception. Those without press cards are not recognized as
journalists. Consequently, they will evidently be barred from any event
that the organizers, the police, and the authorities, dislike the press
to attend. “Press card bearing” is often referred to as one condition
for journalists who want to attend state-organized, high level meetings.
With this requirement, the organizers succeed in blocking hundreds of
reporters and, of course, bloggers.
More than anyone else, the police insist that only those granted
with press cards are recognized as journalists and that those without
press cards are just “self-proclaimed” reporters or freelance writers
who must not be given access to “authorized information”. On October
30th 2012, Catholic blogger Huyền Trang was detained and interrogated
for nearly one day in a Ho Chi Minh City police station. When she told
the police that she worked as a reporter for Redemptorist News, an
online Catholic news service, they shouted at her, “Who recognized you?
Where is your press card? You all are a band of reactionary parasites!”
In 2011 and 2012 alone, dozens of journalists reported being
harassed or even assaulted by the police, ruffians and even civilians.
However, their denunciations and complaints simply went ignored because
they were not “journalists performing duties” in the eyes of the
authorities.
Being unrecognized may cause much more trouble to bloggers because
they do not receive protection. Dieu Cay and Ta Phong Tan, the two
members of the Free Journalist Club, were severely persecuted when they
came to hot spots to report for their personal blog. Both were given
harsh sentences in the end: 12 years of imprisonment for Dieu Cay and 10
years for Ta Phong Tan.
On the one hand, the Party and the state tightly control official
media. On the other hand, they keep denying the existence of “citizen
journalists”.
Both the mainstream media and the blogosphere heard of Truong Duy
Nhat, who quit his journalistic career to become a blogger. He is now
the owner of the blog “A Different Viewpoint”. Following his arrest on
May 26, 2013, journalist Duc Hien (aka. Bo Cu Hung) commented on his FB
page, “the thing is that a journalist must be able to access
information. If he or she lacks the ability or opportunity to access
information, his or her different viewpoint will be either insults, or
libels, or talking along the same line as someone else…”
Ironically while political bloggers harsly criticized Hien, he was
right from the viewpoint of the authorities. The ability and opportunity
to access information remain a huge difference between a journalist and
a blogger, or a state-recognized journalist and an independent (free)
one. There is no way for a blogger to attend major social or political
state-organized events and gatherings, international and national
conferences, or interview high ranking officials of the Party and the
government.
The authorities are fully aware that they must employ this
disadvantage of the bloggers to keep them in the disadvantageous
position to the press. At the same time, they deliberately create an
invisible war between “right side” and “left side” media to curb any
form of cooperation between state-owned and citizen journalists.