Nhà văn Phạm Viết Đào
Nguyên Trưởng phòng Thanh tra, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội
Nguyên Trưởng phòng Thanh tra, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội
Dân Luận: Bài viết này được nhà văn Phạm Viết Đào đọc
tại hội thảo "Tác động của truyền thông xã hội lên tác nghiệp báo chí"
sáng 24/12/2012 tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học-Kỹ thuật Việt Nam.
Nhân sự kiện ông Phạm Viết Đào bị bắt khẩn cấp dựa trên điều 258 Bộ
Luật Hình Sự, chúng tôi xin giới thiệu bài viết tới độc giả...
Chúng ta đang sống trong một đất nước, một thể chế mà ngay cả những con người bình thường nhất, ít phải chịu chức phận xã hội cũng có rất hiếm cơ hội, điều kiện để bộc bạch, được chia sẻ với những người xung quanh những suy nghĩ thật lòng trên các phương tiện truyền tin đại chúng; từ con người bình thường đến những người có những chức phận cao, lớn đều quen rèn và tự khép mình trong khuôn khổ tổ chức: tổ chức đảng, các đoàn thể, thanh niên, phụ nữ, phường xã…và cứ cuối năm cuối quý, từ bé cho đến lớn, từ trẻ cho tới già khi bình bầu xếp loại thành viên của tổ chức bao giờ cũng có một mục, mục tự đánh giá về ý thức tổ chức, ý thức chấp hành kỷ luật của cái tổ chức mà anh tự nguyện hoặc buộc phải tham gia…; trong khi đó thì ý thức chấp hành luật pháp lại không phải là thứ lúc nào cũng được đề cao, phổ cập…
Đó chính là lý do khi mà inernet phát triển, tạo cửa mở cho mỗi cá
nhân có điều kiện giao lưu, giao tiếp với thế giới bên ngoài, bày tỏ
chính kiến của mình; chính vì thế nên Internet nó có sức hấp dẫn mãnh
liệt. Internet đã thật sự tạo nên một cuộc cách mạng về quan hệ xã hội
không chỉ đối với một xã hội khép kín như ở Việt Nam mà cả thế giới đã
có truyền thống dân chủ cởi mở hơn… Bởi nhu cầu giao tiếp, nhu cầu trao
đổi, chia sẻ thông tin, chính kiến, cảm xúc là một nhu cầu không có điểm
dừng đối với thế giới văn minh; xã hội càng phát triển, nhu cầu này
càng phát triển theo cấp lũy thừa…
Theo một cuộc khảo sát công bố hôm tạp chí NEON của Đức được AFP đưa
tin gần đây, bằng hình thức phỏng vấn thanh niên Đức trong độ tuổi từ 18
đến 35 tuổi; Cuộc khảo sát đã cho kết quả: 18% người Đức trả lời họ
thích thú sử dụng Internet hơn là quan hệ tình dục; một số người còn cho
biết họ nghiện inernet hơn thuốc lá; trong khi người Đức là một trong
những quốc gia tiêu thụ nhiều thuốc lá, có ý kiến còn đề xuất dùng
internet để cai nghiện thuốc lá, cai tình dục…
Theo khảo sát, 70% thanh thiếu niên Đức nói rằng họ xem thường xuyên truy cập 10 trang web mỗi ngày, trong khi chỉ có 12% cho rằng theo dõi thường xuyên hơn 25 trang web trực tuyến.
Theo khảo sát, 70% thanh thiếu niên Đức nói rằng họ xem thường xuyên truy cập 10 trang web mỗi ngày, trong khi chỉ có 12% cho rằng theo dõi thường xuyên hơn 25 trang web trực tuyến.
Cuộc khảo sát này được thực hiện do Viện Forsa, bắt đầu từ một mẫu đại diện của 1016 người, mỗi người có một kết nối internet.
Qua những dữ liệu trên cho thấy đang tồn tại sự cách bức giữa nhu cầu
của công chúng với các phương tiện thông tin truyền thống ngay cả với
cả những quốc gia cởi mở như Đức; sức hấp dẫn vượt trội của Internet
trong đó các trang mạng xã hội là một trong những yếu tố cấu thành sinh
thể Internet, xã hội internet hay còn được gọi là cộng đồng mạng.
Trước hết chúng ta hãy phân định về sự khác biệt giữa báo chí, phương
tiện thông tin đại chúng với các trang mạng xã hội; một cộng đồng tự
sản, tự tiêu sản phẩm của mình…Về nguyên lý: báo chí là cơ quan đầu mối
thu thập và tán phát thông tin, kinh doanh thông tin; báo chí vừa có
quyền năng, phương tiện và cơ sở vật chất nhất để thu thập thông tin,
sàng lọc thông tin, tổng hợp thông tin như một loại hình doanh nghiệp
đặc thù thế mà tại sao lại không đáp ứng xuể nhu cầu của người tiêu thụ
để các trang mạng xã hội chen chân vào…
Trong khi đó các trang mạng xã hội phần lớn do các cá nhân dựng lên nhằm mục đích chủ yếu là để thỏa mãn cái nhu cầu trình bày, chia sẻ những suy nghĩ thật, những cảm nghĩ thật và những điều mắt thấy, tai nghe của chủ trang mạng với cộng đồng mạng.
Trong khi đó các trang mạng xã hội phần lớn do các cá nhân dựng lên nhằm mục đích chủ yếu là để thỏa mãn cái nhu cầu trình bày, chia sẻ những suy nghĩ thật, những cảm nghĩ thật và những điều mắt thấy, tai nghe của chủ trang mạng với cộng đồng mạng.
Thông tin từ các trang mạng xã hội (blog, trang Web cá nhân) chỉ là
những nguồn tin cá lẻ, cá nhân và mang tính khu biệt, tùy hứng, ngẫu
hứng thế nhưng không ít trang lại cạnh tranh nghiêng ngửa với các tờ báo
điện tử chính thống có cả ban biên tập và cơ sở vật chất, thiết bị kỹ
thuật dồi dào…
Đứng về vấn đề thu thập, sàng lọc thông tin thì báo chí mới là cơ
quan đầu mối, có điều kiện hơn nhiều so với các trang mạng xã hội; Còn
như đặt vấn đề thu thập, sàng lọc thông tin từ các trang mạng xã hội thì
chỉ cận bộ phận biên tập của các tòa soạn báo có kinh nghiệm, tinh
nhạy, mẫn cảm là có thể lôi kéo, tập hợp xung quanh mình một đội ngũ
thông tín viên cung cấp nguồn tin cho bản báo…
Theo tôi: điều quan trọng nhất, điều mà báo chí cần phải thường xuyên
tiếp nhận, bổ sung nguồn dưỡng chất, sinh khí cho tờ báo của mình từ
nguồn các trang mạng xã hội không phải là nguồn tin, số lượng và sự đa
dạng, đa chiều của thông tin mà ở vấn đề mà báo chí cần phải nghe nghe
ngóng, thu thập từ các trang mạng xã hội: loại vấn đề gì đang nổi lên
được người đọc quan tâm, được các trang mạng xã hội lao vào bàn tán,
giao đãi, đưa tin nhiều… Đây chính là các thế mạnh, sở trường đích thực
của các trang mạng xã hội. Bởi vì hơn các tòa soạn báo các trang mạng xã
hội thường viết lên những cảm nghĩ, xúc cảm đích thực tươi mới không
thể không viết ra và không thể không đưa lên mạng để chia sẻ với cộng
đồng của từng cá nhân…Nói cách khác: chúng ta phải tìm cơ chế, giải pháp
để các nhà báo khi viết tin bài được bộc lộ chính kiến của mình, cảm
xúc của mình như các blogger, có như thế báo chí mới gần với độc giả,
mới truyền tải, cập nhật được hơi thở gấp gáp của đời sống xã hội?
Một biên tập viên, một nhà báo có nghề và có kinh nghiệm là người phải biết dò đoán, “đánh hơi” dư luận xã hội thông qua các trang mạng xã hội, thông qua các “ đặc tình “ trong lĩnh vực thông tin để trên cơ sở đó mà tham mưu, hoạch định chiến thuật, chiến lược thu thập, khai thác thông tin và bình luận định hướng dư luận xã hội cho bản báo…Một trang mạng xã hội dù nhạy bén đến đâu cũng không thể thu thập được nguồn tin phong phú bằng các ban biên tập; thế nhưng mặc dù nhiều khi họ chỉ ăn theo thông tin của các tờ báo để rồi họ, các trang mạng xã hội đã vượt lên các tờ báo nhờ vào khả năng đoán định chiều hướng thông tin, bình luận, phân tích, mổ xẻ thông tin…là những điều mà độc giả cần, mong đợi…
Một biên tập viên, một nhà báo có nghề và có kinh nghiệm là người phải biết dò đoán, “đánh hơi” dư luận xã hội thông qua các trang mạng xã hội, thông qua các “ đặc tình “ trong lĩnh vực thông tin để trên cơ sở đó mà tham mưu, hoạch định chiến thuật, chiến lược thu thập, khai thác thông tin và bình luận định hướng dư luận xã hội cho bản báo…Một trang mạng xã hội dù nhạy bén đến đâu cũng không thể thu thập được nguồn tin phong phú bằng các ban biên tập; thế nhưng mặc dù nhiều khi họ chỉ ăn theo thông tin của các tờ báo để rồi họ, các trang mạng xã hội đã vượt lên các tờ báo nhờ vào khả năng đoán định chiều hướng thông tin, bình luận, phân tích, mổ xẻ thông tin…là những điều mà độc giả cần, mong đợi…
Hiện nay, các trang mạng xã hội Việt Nam đang cạnh tranh khốc liệt
với các tờ báo trong đó có báo điện tử về hướng này; trong rất nhiều
trường hợp giống như việc phát minh và khai thác chiếc máy tính điện tử:
Liên Xô mới là quốc gia đầu tiên phát minh ra máy tính nhưng đưa vào
ứng dụng rộng rãi, cải tiến nó và thu lời, làm giàu từ phát minh này lại
là người Mỹ…Hiện nay một số trang mạng xã hội có chỗ đứng sâu trong
lòng cộng đồng mạng, chiếm được tình cảm là do khả năng cải biến, xử lý,
“tái chế”, phóng đại thông tin chứ không phải ở cái khả năng săn tin?
Ở đây do báo chí Việt có một số hạn chế do điều kiện khách quan: Việt
Nam không có báo tư nhân, mỗi tờ báo kể cả báo điện tử đều là tiếng nói
của một cơ quan cấp Bộ và Hội đoàn thế có vai vế; tiếng nói, tôn chỉ
mục đích đã được mặc định kể cả báo Nhân Dân có đề thêm vào Tiếng nói
của nhân dân cũng chỉ là đề mang tính xã giao, hình thức, đãi bôi…Do nét
đặc thù này của đời sống báo chí Việt Nam như vậy nên dẫn tới tình cảnh
người dân Việt phải cam chịu cái sự đói khát, khô hạn dài dài về về nhu
cầu chia sẻ thông tin, chính kiến, xúc cảm cá nhân…Chưa kể có lúc những
ý kiến trái chiều với một cơ quan chức năng nhà nước, chức năng nào đó
của Đảng bị xem như là một thứ hành vi vi phạm Luật hình sự và bị kỵ húy
thậm chí còn bị truy cứu…Do vậy, khi internet ra đời, tạo điều kiện cho
cư dân mạng Việt Nam có một mảnh đất mới, một khu đất phần trăm tùy ý
sử dụng để góp phần tăng gia thêm khẩu phần thông tin và chia sẻ chính
kiến. Do đó nên đã xuất hiện rất nhiều cây viết, chủ nhân của các cư dân
mạng nổi tiếng hơn cả nghề tay phải của mình, họ là nhà báo nhưng người
đọc biết nhiều về họ hơn nhờ viết blog chứ không phải viết báo; có nhà
báo bỏ cả nghề báo để viết blog; có ông chẳng liên quan gì đến nghề báo
tự dưng nhảy ra làm trang mạng có sức lôi cuốn người đọc, thách thức các
tổng biên tập báo chính thống khiến cho Huy Đức một nhà báo kiêm một
blogger có tiếng đã phải thốt lên: Báo chính thống nói chuyện Ba Sàm; Còn Ba Sàm lại đưa chuyện chính thống…
Rất nhiều các hãng thông tin nước ngoài khi một tìm hiểu dư luận xã hội
về một vấn đề nào đó lạ thường tìm đến các blogger hơn là tìm đến những
nhà báo, nhà quan sát chính trường có nhãn mác, bằng cấp và giấy phép
hành nghề…
Sở sĩ xảy ra tình trạng trên là do các trang mạng cá nhân có điều
kiện cho phép chủ nhân được giãi bày những suy ngẫm, những quan ngại,
những xúc cảm cá nhân; nếu một nhà báo khi đặt bút viết về một vấn đề
nào đó thì điều mà anh quan tâm đó không phải là độc giả đầu tiên chắc
phải là hàng thứ 2, số 1 đó là liệu cái tin bài mình viết ra có được TBT
đăng cho không? Nhiều phóng viên đã phải làm cái việc trước khi quyết
định bắt tay vào lấy tin, viết bài thì đã phái trao đổi trước với lãnh
đạo báo trước… Như vậy, độ nóng, độ tươi mới cập nhật và dấu ấn cá nhân
của sự phát hiện của tin bài đã bị gián đoạn, cách bức so với một một
blogger hay một ông chủ một trang Web cá nhân. Mỗi khi chủ của các trang
mạng xã hội thấy vấn đề tác động vào họ buộc họ phải đặt bút viết là
lập tức họ bắt tay vào ngay; trước bàn phím của họ là cá nhân của họ
được vui sướng giãi bày cảm xúc của mình qua con chữ và độc gia quen
thuộc đang chờ họ…
Do vậy nếu báo chí muốn sàng lọc thông tin, nhất là loại thông tin về
các vấn đề mà xã hội độc giả quan tâm thì không đâu bằng cập nhật những
trang mạng các nhân có lượng độc giả đông, ổn định…Thực ra, không chỉ
báo chí mà theo người viết bài này được biết: một số cơ quan chức năng
như công an, tuyên giáo, các cơ quan hành chính cũng đã trở thành độc
giả của nhiều trang mạng cá nhân có tên tuổi; họ vào các trang mạng này
không phải vì tò mò, cũng không phải vì đói thông tin vì thông tin trên
các trang mạng xã hội thường là những thông tin cần phải kiểm chứng,
sàng lọc; Qua các thông tin trên các trang mạng xã hội, chắc các cơ quan
chức năng muốn đo kiểm xem phản ứng, những diễn biến, xu thế chính kiến
xã hội đang quan tâm, đổ xô vào các vấn đề gì, thậm chí các trang mạng
xã hội còn là nơi do lường, kiểm chứng lòng dân trước các chính sách,
chủ trương mới ban hành của nhà nước, của các đoàn thể xã hội…Và ở khía
cạnh này các trang mạng xã hội có độ tin cậy cũng như độ nóng của sự
tươi mới cao hơn các cơ quan ngôn luận báo chí…
Một tờ báo muốn tạo cho mình chỗ đứng bền vững trong lòng độc giả thì
phải đón đầu cho được những chiều hướng thông tin mà độc giả quan tâm,
những vấn đề xã hội đang gây bức xúc độc giả và khi báo chí xông vào với
sức mạng về tay nghề, phương tiện sẽ lôi kéo, định hướng được độc giả…
Ở Nhật tại những xí nghiệp lớn đông công nhân làm việc, nhiều ông chủ
cho xây những phòng giải trí, ở trong đó có nhiều bức tượng bằng cao su
có dáng hình và kích cỡ giống, đúng như các yếu nhân đang quản lý nhà
máy…Nhà giải stress này nhằm mục đích tạo điều kiện cho công nhân của
nhà máy, nếu họ có điều gì đó bất bình với ông chủ hoặc ai đó có liên
quan tới công việc hàng ngày; họ có thể vào đấy đấm đá thỏa thích người
mà họ cho là đang ức hiếp họ…Các phòng xả stress này đều có hệ thống ghi
âm, ghi hình để các ông chủ theo dõi không nhằm mục đích trả thù, đối
phó với người phản ứng mình mà để điều chỉnh các giải pháp, phương cách
quản lý…
Quản lý một xã hội cũng giống như một xý nghiệp, một nhà máy, một gia
đình…cho dù thiết kế ra được một guồng máy quản trị, hoàn hảo đến đâu
cũng khó lòng làm thỏa mãn hết thảy, làm cho mọi thành viên có nhu cầu,
sở thích, sở trường khác nhau đều vui vẻ cả; Do vậy, các phương tiện
thông tin đại chúng là cái kênh có nhiệm vụ thông tin giúp các tầng lớp
trong xã hội có điều kiện để hiểu nhau, giao lưu, giao cảm với nhau để
trên cở sở này mà tìm ra những cây cầu ngõ hầu tìm ra được tiếng nói
chung, tránh cho xã hội những sự dồn toa, giật cục dẫn tới đổ vỡ trong
các mối quan hệ…
Nắm bắt các luồng thông tin, dư luận xã hội để trên cơ sở này mà
hoạch định các chính sách xã hội là điều mà bất kể một thể chế quản trị
văn minh, tiến bộ nào; Điều này thực ra kể cả Việt Nam chúng ta từng đã
thiết lập có điều hiệu quả và chất lượng của nó tới đâu thì đó là điều
mà chúng ta cần suy tính cân nhắc…
Hiện nay chúng ta có hệ thống hơn 800 tờ báo và Đài truyền hình trung
ương đã được đầu tư từ nhiều nguồn trong đó có ngân sách nhà nước về
trang thiết bị kỹ thuật để làm việc đưa tin, thông tin, bình luận, phân
tích, kiến giải thông tin để định hướng dư luận xã hội; Thế nhưng có thể
do những nét đặc thù của cơ chế quản lý, quản trị của hoạt động này nên
chất lượng của công tác thông tin giúp cho khâu quản trị xã hội của nhà
nước hiệu quả không cao, tác động vào dự luận xã hội còn hời hợt… Đang
có một khoảng cách, một bức vách ngăn giữa cơ quan thông tin, những
người làm nghề thông tin (các nhà báo) với xã hội…
Xin lấy vị dụ nạn nợ xấu do quá nguồn tiền ngân hàng đổ vào thị
trường bất động sản phát triển cung vượt cầu quá lớn? Đây không phải là
lần đầu Việt Nam và thế giới đã rơi vào thảm cảnh này; chúng ta không
thiếu những cơ quan chuyên nghiên cứu, dự báo thị trường trong đó có thị
trường bất động sản…Chúng ta có hàng trăm tờ báo chuyên ngành về kinh
tế, hàng trăm tờ báo không chuyên về thị trường nhưng hàng ngày vẫn dành
các chuyên trang cho vấn đề kinh tế-thị trường; thế tại sao lại không
có được một phản biện, dự báo nào can ngăn các nhà đầu tư để tình hình
bất động sản lao vào thảm họa như hiện nay? Chỉ qua vụ thị trường bất
động sản thôi đã thấy cái cơ chế thu thập, sàng lọc, tổng hợp và xử lý
thông tin của chúng ta có vấn đề; Điều này không chí đối với báo chí mà
cả các cơ quan hoạch định chính sách tầm vĩ mô lẫn vi mô…
Trong cuộc sống hàng ngày, chỉ hai con người với nhau thôi, nếu không
có sự giãi bài, bộc bạch với nhau những chỗ uẩn khúc, những khúc mắc,
tức nói nôm na không sống thật lòng với nhau thì họ khó lòng có được
tình bạn lâu bền, họ sẽ không có được những hành động chân thành, thiết
thực, chia sẻ, động viên, an ủi nhau trong những lúc khó khăn…Hiện nay
các cơ quan thông tin đại chúng không làm tròn phận sự vì chưa sống thật
lòng, chia sẽ thành thật với độc gia thông qua việc đưa tin và thông
tin, bình luận, định hướng thông tin với độc giả…Đó chính là lý do khiến
cho các mạng xã hội ra đời…Các trang mạng xã hội đang gánh vác cái
nhiệm vụ nặng nề đó là việc bù đắp những phần thiếu hụt, phần què quặt
của cộng đồng thông tin chính thống…Thử vào các đài truyền hình và các
phương tiện chính thống mà xem: thấy xã hội chúng ta hoàn thiện êm đẹp
một cách giả tạo…
Rất may trong hàng chục năm gần đây do sự bùng nổ của phương tiện
internet đã tạo điều kiện có rất nhiều cá nhân, blogger đã nghiễm nhiên
biến thành những nhà báo có đông người tìm đến giống như những tờ báo
những tờ báo có nhãn mác và có giấy phép hoạt động nghề do Bộ Thông
tin-Truyền thông cấp… Hiện nay một số trang mạng xã hội riêng về các chủ
đề thông tin gần với các tờ báo chuyên ngành về kinh tế-xã hội hàng
ngày đã thu hút tới dăm ba vạn lượt truy cập; số trang mạng này ở Việt
Nam cũng đã lên tới hàng chục trang mặc dù hoạt động tự phát, chưa
chuyên nghiệp về mặt kỹ thuật…Các blogger đã nơi khỏa lấp phần nào cái
thiếu hụt này của các cơ quan thông tin chính thống đã gây ra cho xã hội
thông tin Việt Nam…Thử hình dung nếu không có các trang mạng xã hội mặc
dù bị chèn ép đủ đường thì làm sao người dân và kể cả các cơ quan chức
năng biết được thực chất về cái mặt trái của vũ cưỡng chế đất ở Tiên
Lãng, Hải Phòng, Văn Giang ở Hưng Yên và nhiều vụ khác…Các cơ quan chức
năng vào cuộc giải vụ này theo tôi thực chất là do sức ép của các trang
mạng xã hội chứ khó tin là do các bộ phận tham mưu giúp việc đi xe sang,
hưởng lương cao tham mưu, đề xuất…
Bản thân tôi là người ham viết blog, mới nghỉ hưu từ 1/6/2012, trang
của tôi bị đánh sập 3 lần và không biết ai phá; rất nhiều lần trực tiếp
được mời lên yêu cầu giải trình các nội dung, quan điểm cũng như trách
nhiệm hành chính ( vì tôi là công chức ) và trách nhiệm trước luật pháp
về những thông tin tôi nêu về những vấn đề tôi viết ra…Tôi đã giải
thích, tranh luận sòng phẳng, minh bạch rằng: những điều tôi viết ra
không vi phạm 19 điều đảng viên không được làm vì tôi là đảng viên; Tôi
không vi phạm luật pháp thông tin ( Luật Báo chí và các văn bản có liên
quan)…Tôi là hội viên Hội Nhà văn VN, hội viên Hội Nhà báo VN, thiên
chức của tôi cũng giống như anh nông dân, phải có cày và ruộng cho chúng
tôi cày cấy; Khi nhà nước thừa nhận cho phép bằng luật pháp hoạt động
của những hội này thì nhà nước phải chịu trách nhiệm bảo hộ công việc
của chúng tôi, những cư dân hoạt động có thẻ khi chúng tôi không làm gì
vi phạm luật pháp…Có ý kiến bác lại: Sao không đưa các ý kiến đó cho các
báo mà lại đưa lên mạng; tôi trả lời: nếu đưa tới báo thì báo không
đăng; còn gửi cho những người có trách nhiệm, cơ quan có trách nhiệm có
liên quan thì tôi không muốn mang tiếng là người đi khiếu kiện,
xin-cho…Tôi đề xuất: Hay các ông lập ra một trang mạng tạo cơ chế cho
một diện hẹp nào đó được đọc, các ông quản lý để chúng tôi viết trình
bày chính kiến của mình: Điều nào sai các ông phản bác, điều nào đúng để
những người có trách nhiệm tiếp thu; chúng tôi cũng chỉ mong có thế, vì
không có nơi vui vẻ tiếp nhận nên chúng tôi phải tung lên mạng, lên
trời…
Tóm lại, cho rằng hiện nay so với báo chí chính thống thì các trang
mạng xã hội có điều kiện bộc lộ chính kiến của người viết hơn; vấn đề mà
tôi đề câp, kết lại: làm sao để các nhà báo được sống hết mình với tin
bài của mình như các trang mạng xã hội, có như thế báo chí mới góp phần
hữu ích vào đời sống xã hội…Vấn đề này nó vượt ra ngoài phạm vi cuộc hội
thảo này vì nó vướng vào cơ chế, chính sách; Cuộc hội thảo này chỉ bàn
tới một vấn đề thuộc phạm vi nghề nghiệp thông tin của báo chí. Tôi muốn
bàn tới cái gốc của vấn đề đó là cơ chế-chính sách quản lý thông tin
báo chí thuộc trách nhiệm của Bộ Thông tin-Truyền thông; Để phát biểu
điều này phải là cuộc hội thảo do Bộ Thông tin-Truyền thông tổ chức và
chủ trì…Cách đây không lâu, tôi có đọc văn bản soạn thảo về Nghị định
Internet sửa đổi, tôi thấy vô lý vì trong đó có một dòng ghi đại ý:
thông tin báo chí mới là chính thống, hợp pháp còn thông tin trên mạng
xã hội là không chính thống…Bộ TT-TT cứ quy định còn người đọc người ta
cứ vào các trang mạng xã hội để đọc, các hãng thông tấn nước ngoài có uy
tín vẫn tiếp cận các blogger để lấy tin vậy thì cái chính thống mà Bộ
Thông tin Truyền thông quy định đó ai nghe, ai theo, ai tin và tin ai?
Nếu không bàn tới cơ chế chính sách giải phóng sức sản xuất cho các
nhà báo được hành nghề, bộc lộ chính kiến của mình như các blogger thì
nếu có tờ báo nào đó mời tôi viết bài tôi cũng lại viết như các nhà báo,
nếu muốn được đăng…Và tham gia cuộc hội thảo này, tôi cũng đã phải đắn
đo, viết tham luận cẩn thận, rà đi soát lại để không bị kiểm duyệt, biên
tập khiến cho ý kiến của mình không được phát. Còn lên trang của tôi
thì khi viết xong chỉ một cú nhấn chuột là bài sẽ lên mạng…
P.V.Đ