Nguyễn Giang
Bài
phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại diễn đàn Shangri-La vừa qua
đánh dấu một chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và vẫn
đòi hỏi có thêm các đánh giá đúng mức sau nhiều bình luận khen chê trong
và ngoài nước.
Trước hết, sự xuất hiện trở lại sau một
thời gian khá lâu của Thủ tướng Việt Nam ở một diễn đàn quốc tế quan
trọng – tính từ dịp ông tới New York tháng 3/2012 dự Thượng đỉnh An toàn
Hạt nhân – là điểm son cho bản thân ông Dũng, người gặp nhiều khó khăn
nội bộ thời gian qua đa số vì chính các vấn đề kinh tế nghiêm trọng của
chính phủ ông điều hành gây ra.
Xu hướng chuyển động
Nhưng tạm gác lại chuyện nội trị để bàn
về ngoại giao thì rõ ràng là bài diễn văn ở Singapore tuần qua của Thủ
tướng Dũng tạo ấn tượng tốt trong chính giới ở Washington và các nước
Asean chính vì đã phản ánh một số xu hướng đang thành quy luật.
Thứ nhất là các nước bên ngoài không thể
nói về an ninh biển ở Đông Nam Á lại không tính đến Asean, cho dù hiệp
hội thường bị chê là liên kết lỏng lẻo, thiếu sức mạnh.
Quy luật nữa là để có thể ‘không trở
thành đồng minh quân sự với nước nào’ như lời ông Dũng nói, một dạng như
quy chế trung lập của Thụy Sỹ, nước có huấn luyện quân sự toàn dân và
nhà nào cũng cất súng, thì Việt Nam cần tự cường về quân sự, và hai điều
này không hề mâu thuẫn với nhau.
Mua sắm có đúng không, có biết sử dụng vũ
khí tối tân và tinh thần chiến đấu ra sao là chuyện khác nhưng trên
nguyên tắc thì chọn vị thế ‘trung lập’ mà không tự cường sẽ chẳng khác
gì Campuchia thời Sihanouk.
Và về địa chính trị, quy tắc áp dụng
không chỉ riêng với Việt Nam, là nước nhỏ hoặc tầm trung phải chấp nhận
thực tế rằng các nước lớn hơn có những quyền lợi lớn hơn để mặc cả và
giải quyết trước khi quan tâm đến mình.
Vì thế, thái độ của Thủ tướng Dũng trước câu hỏi không hề ngoại giao của đoàn Trung Quốc là đúng mực.
Về mặt thủ tục và ứng xử, không việc gì một thủ tướng phải đôi co với một thiếu tướng, nhất là khi vị tướng đó lại là phụ nữ.
Về đối sách, địa chính trị của Việt Nam không cho phép nước này đối đầu với nước láng giềng phía Bắc.
Về lịch sử, Hà Nội cũng rút ra bài học
đứng hẳn về một bên trong Chiến tranh Lạnh, trở thành tuyến lửa cho hai
hệ thống đánh nhau, hoặc làm đồng minh của Moscow từ 1978 và bị Bắc Kinh
trừng phạt trong tiếng vỗ tay khuyến khích từ Washington.
Ví dụ của Ba Lan, nước luôn có dư luận
thân Hoa Kỳ mạnh mẽ, cho thấy kể cả khi đã là thành viên NATO, Warsaw
cũng không thể mong Hoa Kỳ xây lá chắn hỏa tiễn bảo vệ mình trước đe dọa
nào đó từ Nga.
Người Ba Lan phải chấp nhận rằng dù Nga
có căn cứ hải quân ở Kaliningrad ngay biên giới thì Hoa Kỳ còn có cả
bang Alaska ‘mặt đối mặt’ với Nga, chưa kể các tính toán chiến lược của
Washington ở Viễn Đông và Trung Á không thể gặp sự chống đối từ Kremlin.
Huống chi Việt Nam thực ra chưa phải là
đồng minh gì của Hoa Kỳ về quân sự, vì như Đại sứ David Shear vừa nói
tại California, quan hệ quân sự hai bên mới chỉ có một vài thỏa thuận
chung chung.
Quy luật ‘nước xa không cứu được lửa gần’
càng được làm rõ qua thái độ của bà thiếu tướng Diêu Vân Trúc khi chất
vấn Thủ tướng Việt Nam, khiến cử tọa có thể đặt câu hỏi quan chức Trung
Quốc còn coi Việt Nam là nước đồng minh có quan hệ ‘Bốn Tốt’, khắc bằng
các dòng chữ vàng chữ bạc gì đó nữa không.
Quy luật hay nghịch lý?
Nhưng đã nói về quy luật thì cũng cần nêu
ra một nghịch lý là với Việt Nam, ngoại giao có vẻ như không phải là
phần nối dài của chính sách nội trị.
Ngoại giao Việt Nam những năm qua đã có những bước tiến hội nhập chắc chắn, mềm dẻo bất chấp những lệch lạc của nội trị.
Một phần là nhờ trên thế giới có các luật
chơi khá rõ và các định chế quốc tế làm chuẩn và nền truyền thông phản
ánh đúng những chủ đề lớn đang diễn ra nên định hướng của ngành ngoại
giao Việt Nam có những điểm tựa tốt.
Đó là chưa kể vào những giai đoạn trọng
yếu, Việt Nam nhận được những bàn tay nâng đỡ từ bên ngoài mà báo chí
trong nước thường nói đến rất ít vì nhãn quan ‘bạn thù’ còn nặng.
Ngược lại, các vấn đề nội bộ, từ dân
sinh, dân quyền đến dân chủ ở Việt Nam đều vấp phải rào cản mang tính cơ
chế và bị phản ánh thiên lệch qua một mạng lưới truyền thông có nhiều
bộ phận thiếu trách nhiệm chung lại thiên về vụ lợi bè nhóm, vùng miền.
Càng hội nhập, Việt Nam càng cần áp dụng
các chuẩn mực quốc tế vào các vấn đề quốc nội chứ không thể để tình
trạng ‘sức mạnh mềm’ về ngoại giao và hình ảnh liên tục bị các vụ việc
mang tính đối phó bạo lực, ‘không làm gì được thì cấm’, làm suy yếu.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói rất
thuyết phục trước cử tọa quốc tế nhiều lần về ‘chiến lược xây dựng niềm
tin’, về thái độ ‘tôn trọng lẫn nhau’ giữa các nước.
Nếu chính quyền các cấp cũng làm đúng như
vậy để tạo niềm tin trong dân và trí thức thì chắc chắn nhiều hồ sơ
tiềm tàng gây bất ổn ở Việt Nam sẽ dần giảm đi.
Ở gần Việt Nam, chính Thủ tướng Dũng đã
nêu ví dụ thành công của quá trình “cởi mở cho một tương lai tươi sáng”
dựa trên căn bản của “kiên trì đối thoại, xây dựng niềm tin, tôn trọng
quyền lợi chính đáng của các bên” ở Myanmar như bài học cho khu vực.
Cải tổ hiến pháp ở Myanmar quả thật đã mở
ra các hướng đi mới cho nước này, so với cuộc vận động ‘sửa đổi hiến
pháp’ Việt Nam tốn kém và kết quả chưa thấy có gì.
Ở xa hơn, diễn biến nhanh chóng tại Thổ
Nhĩ Kỳ cho thấy thêm một quy luật khác là đối ngoại hay chưa chắc đã cứu
được nội trị dở.
Dù là đồng minh quan trọng của Mỹ và đang
vươn lên làm cường quốc vùng, Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự lãnh đạo rắn tay của
Thủ tướng Recip Tayyip Erdogan vẫn rơi vào cuộc khủng hoảng bất ngờ chưa
rõ hồi kết.
Nếu nhanh chóng rút ra được các bài học
đang diễn ra quanh mình, Việt Nam vẫn đang có cơ hội chấn chỉnh kinh tế,
kiềm chế các nhóm lợi ích và giải phóng sự sáng tạo của xã hội để tạo
chuyển biến mang tính nền tảng.
Sự đón nhận dành cho bài diễn văn của Thủ
tướng Dũng tại Singapore cho thấy kỳ vọng của bạn bè khu vực và các
đồng minh tiềm năng với Việt Nam vẫn còn rất cao và sẽ thật là điều đáng
tiếc nếu nước này không đóng được vai trò như mong đợi đó.
Theo BBC