Tống văn Công
I- VÌ SAO QUỐC HỘI KHÔNG THỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC ”CÁI TẤT YẾU”?
Sau khi Hiến pháp được Quốc hội thông qua với số phiếu áp đảo, dư
luận cả nước sôi hẳn lên. Các giáo sư, tiến sĩ Mác – Lê phân tích “Hiến
pháp thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng được Quốc hội thông qua là thắng
lợi của ý Đảng lòng dân”. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trong nói ”Hiến pháp mới nói lên tiếng nói của 90 triệu đồng bào”. Báo Nhân Dân đăng bình luận “Hiến pháp (sửa đổi) – một bước tiến lịch sử”.
Nhưng có sự phản ứng ngược lại. Nhà văn Võ thị Hảo kêu lên ngày thông
qua Hiến pháp là ngày tang khốc của dân tộc. Đảng viên Lê Hiếu Đằng,
người từng bị chế độ Sài Gòn kết án tử hình tuyên bố từ bỏ Đảng. Hôm
sau, đảng viên tiến sĩ Phạm Chí Dũng một cây bút bình luận thời sự chính
trị xuất sắc, gửi tâm thư xin ra Đảng, bởi “Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng chỉ mang hơi thở và bóng hình của các nhóm lợi ích”. Tiếp theo, đảng viên, bác sĩ Nguyễn Đắc Diên ra Đảng nhưng hứa hẹn ”Khi nào Đảng thực sự hoàn lương, nắm vững ngọn cờ dân tộc vứt bỏ ngọn cờ xã hội chủ nghĩa thì tôi lại phấn đấu xin vào”.
Đảng viên Nguyễn Minh Đào gần 80 tuổi đời, gần 60 tuổi Đảng cảnh báo
“Đất dưới chân Đảng đang rung chuyển, tôi mong Đảng hãy kịp thời hành
động, đừng để quá muộn!”.
Lời nói đầu Hiến Pháp mới viết rằng, Hiến pháp này “kế thừa Hiến pháp
1946”. Nếu đúng như vậy thì cũng đã đáp ứng được phần lớn đòi hỏi của
số khá đông đảng viên và nhân dân rồi, vậy tại sao vấp phải phản ứng dữ
dội như vậy? Không đúng! Hiến pháp 1946 và Hiến pháp mới khác nhau về ý
thức hệ, cho nên không có chuyện kế thừa ! Hiến pháp 1946 đề cao vai trò
của nhân dân, đảm bảo các quyền cơ bản của nhân dân, quy định nhân dân
tham gia quyết định các sự kiện trọng đại của đất nước bằng quyền phúc
quyết sau khi đã được Quốc hội thông qua. Hiến pháp 1946 quy định nhà
nước pháp quyền, với tam quyền phân lập, điều mà Tuyên ngôn dân quyền và
nhân quyền của Pháp năm 1879 ở Điều 16 viết: ”Ở một xã hội mà quyền
con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được
tôn trọng thì Hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa
gì”. Khác với Hiến pháp 1946, Hiến pháp mới quy định cho một tổ
chức chính trị được quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội mà không cần phải
qua bầu cử của nhân dân, quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối
trung thành với tổ chức chính trị ấy.
Giống như bào chữa cho việc bỏ phiếu thông qua Hiến pháp của Quốc
Hội, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội cho rằng:
“Hai năm qua, những tư tưởng về chủ nghĩa lập hiến, về chủ quyền
nhân dân, về quyền con người, về cơ chế kiểm soát quyền lực…đã tràn vào
nước ta, thắp sáng khối óc và con tim của hàng triệu người Việt… Tuy
nhiên, nhận thức về sự tất yếu như vậy nhiều khi khó đạt một cách dễ
dàng. Một độ trễ nhất định của nhận thức so với thực tiễn đã đầy “đa
nguyên” của đời sống kinh tế là rất khó tránh khỏi.” Lời bào chữa
của ông không giúp được “hạ nhiệt” dư luận mà trái lại đã làm cho người
đọc thêm bức xúc: “Tại sao những tư tưởng khai sáng tràn vào thắp sáng
được khối óc, con tim của hàng triệu người Việt mà nó lại không thể thắp
sáng nỗi đầu óc, con tim của gần 500 đại biểu Quốc hội, trong có hơn 90
% là đảng viên, và có mặt tất cả các ủy viên Bộ chính trị của Đảng tiên
phong lãnh đạo, “những đại biểu ưu tú mang trí tuệ của dân tộc và thời
đại”? Điều ấy gây khó cho những ai muốn bào chữa họ là những đại biểu ưu
tú của nhân dân!
Mọi người đều biết “tất yếu và ngẫu nhiên” là một cặp phạm trù triết
học phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các hiện tượng trong quá trình
biến đổi, phát triển của thế giới. Tất yếu là cái nhất thiết phải xảy
ra trong những điều kiện nhất định, còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra
hay không thể xảy ra, có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất yếu gắn
liền với những nguyên nhân bên trong, bản chất của hiện tượng, là xu
hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Cái tất yếu mở đường đi cho nó
thông qua vô số những cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên thì trở thành
biểu hiện, bổ sung cho cái tất yếu. Cái tất yếu được chỉ ra trong các
quy luật động học có độ xác định cao. (theo Từ điển Bách khoa).
Nhiều học giả trên thế giới và trong nước đều khẳng định rằng, tự do,
dân chủ, nhân quyền là xu thế tất yếu của thời đại mà mọi quốc gia
nhanh hay chậm đều phải đi đến. Vậy nếu đi ngược lại cái tất yếu thì
điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn phía trước tiềm ẩn nhiều tai họa!
Đại văn hào Stephan Zweig cho rằng “Luôn có những con chim báo bão,
sứ giả của trí tuệ, đi trước những tai họa lớn bằng sự bay của mình”.
Tiếc thay tiếng chim báo bão ở nước ta không có người lắng nghe!
“ĐẾN HẾT THẾ KỶ NÀY CHƯA BIẾT ĐÃ CÓ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HOÀN THIỆN Ở VIỆT NAM HAY CHƯA”!
Trên đây là câu nói của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi góp ý sửa
đổi Hiến pháp. Ông vốn là tiến sĩ về lý luận xã hội chủ nghĩa Mác – Lê,
là người đứng đầu Đảng cộng sản nhận nhiệm vụ “đưa đất nước từng bước
quá độ lên CNXH với nhận thức và tư duy đúng đắn, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Vậy câu nói của ông
nên hiểu là với “nhận thức và tư duy” thế nào?
Theo lý luận Mác- Lê thì ở thời kỳ quá độ, chuyên chính vô sản phải
thi hành các chính sách nhằm tạo ra “điều kiện tiên quyết của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh và tiến hành hợp tác hóa kinh tế nông dân. Thời kỳ quá độ kết
thúc sau khi đã tiêu diệt thành phần tư bản chủ nghĩa ở thành thị và
nông thôn, chủ nghĩa xã hội thắng lợi trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.” (Từ điển kinh tế, Nhà XB CTQG Liên Xô năm 1958, NXB Sự thật in lại
1962, trang 565). Về thời kỳ quá độ, Đại hội 11 kết luận:”Mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính
trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.” Nội dung này trung
thành với nguyên lý nói trên và không gây cảm giác “chuyện ấy còn lâu”.
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới bác bỏ khả năng thực hiện “quá độ
xã hội chủ nghĩa” nói trên. Nhưng có lẽ sự bác bỏ có sức thuyết phục
mạnh nhất là việc các nước SNG trong Liên Xô cũ và các nước Đông Âu vứt
bỏ hoàn toàn lý thuyết nói trên để thực hiện nền dân chủ pháp quyền,
kinh tế thị trường hiện đại và xã hội dân sự.
Nguyên nhân khiến cho chủ nghĩa xã hội không thể vượt qua được chiếc
cầu “quá độ” là vì nó mang nhiều khuyết tật không thể khắc phục, trong
đó có hai vấn đề lớn nhất:
Một là chế độ độc tài toàn trị từng bước làm thoái hóa Đảng cộng sản
cách mạng, vốn đặt mục đích vì lợi ích người lao động, cuối cùng lại trở
thành Đảng quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, đứng trên nhân
dân. Tình trạng này không thể khắc phục được, bởi như nhận định của lý
thuyết gia chính trị Lord Acton “ Quyền lực dẫn tới tha hóa. Quyền lực
tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối.” Các Đảng cộng sản đều kêu gọi đảng
viên gần dân, dựa vào dân, nhưng mọi quyền lợi của họ đều do Đảng quyết
định, cất nhắc, phân công cho nên không có đảng viên nào thấy cần phải
dựa vào dân. Hơn nữa, những điều người dân đòi hỏi mà trái với Nghị
quyết của Đảng thì họ phải nhân danh Đảng bác bỏ, thậm chí trù giập, để
bảo vệ quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là “Đảng cử dân bầu”.
Hai là chế độ xã hội chủ nghĩa triệt tiêu quyền sở hữu tài sản cá
nhân tức là quyền tự do về kinh tế, khiến cho con người mất động lực lao
động sản xuất và sáng tạo. “Cha chung không ai khóc”, “của chung là của
chùa” khiến cho “làm thì nhác, chia chác thì siêng”. Lê Nin cho rằng
quyết định cuộc đấu tranh “ai thắng ai” là ở năng suất lao động bên nào
cao hơn. Nhưng kết cục, năng suất lao động ở các quốc gia xã hội chủ
nghĩa đều thấp, hàng hóa làm ra vừa ít, vừa kém chất lượng. Đời sống vật
chất không được cải thiện, trong khi đời sống tinh thần không có tự do,
nhân dân không thể mãi cúi đầu cam chịu.
Đảng cộng sản Việt Nam may mắn hơn các Đảng cộng sản khác ở 2 điều:
Nhân dân ta nhạy bén, dám phản ứng khi nhìn thấy khuyết tật lộ ra sau
cải tạo xã hội chủ nghĩa; Đảng có nhiều nhà lãnh đạo biết lắng nghe nhân
dân, âm thầm cùng họ “xé rào”(tức là vượt qua các nguyên lý xã hội chủ
nghĩa), như Võ Văn Kiệt, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn Chính,
Nguyễn Văn Hơn, Bùi Văn Giao… Nhờ đó, Đảng có thể lãnh đạo cuộc đổi mới
kinh tế của Đại hội 6 năm 1986. Với cách nói né tránh là “xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp”, thực ra đó là xóa bỏ cơ chế xã hội chủ
nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lê mà nội dung đã trích dẫn ở trên. Chấp nhận
nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản,
nhưng né tránh tên cúng cơm để gọi là doanh nhân. Tuy nhiên về mặt chính
trị thì hầu như 28 năm qua không có sự tự giác đổi mới đáng kể, chỉ vì
sợ mất vị trí độc quyền toàn trị. Ngay trong khóa 6, ông Trần Xuân Bách,
ủy viên Bộ chính trị chỉ vì đề nghị đổi mới chính trị song song với đổi
mới kinh tế đã lập tức bị sa thải!
Đại hội 7, Đại hội 8 vẫn nhắc lại đổi mới kinh tế là “điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới chính trị”, nhưng lại “bác bỏ lợi
dụng dân chủ, nhân quyền nhằm quấy rối về chính trị”. Đại hội 9 rút ra 4
bài học đổi mới không nhắc gì đến đổi mới chính trị. Điều lạ lùng là
Đại hội này khẳng định “Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta bỏ qua chủ nghĩa tư bản”. Thật là cố bám lấy mớ lý luận giáo
điều một cách hết sức nông nổi, dù rằng thừa nhận “tình trạng tham nhũng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.”, bởi vì không nhân thức được
nguyên nhân suy thoái là do không đổi mới chính trị. Đại hội 10, quyết
định,“Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, và
phát triển văn hóa tinh thần”; đồng thời cảnh báo tình trạng suy thoái
đa dạng và nghiêm trọng hơn khóa trước: “Suy thoái chính trị, đạo đức
lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ
chức cơ sở Đảng thiếu sức chiến đấu.” Trước thềm Đại hội 11, nhiều đảng
viên, trong đó có nguyên ủy viên Bộ chính trị và Ủy viên Trung ương,
kiến nghị phải đổi mới chính trị. Ý kiến các đồng chí này không được
nghe, họ còn bị quy chụp là suy thoái chính trị, “tự diễn biến”! Đại hội
11 nhắc lại ”Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ
trình thích hợp…”. Nhưng không nêu ra được những nội dung tự do, dân
chủ của thời đại vào lộ trình đổi mới chính trị. Các văn kiện vẫn tiếp
tục khái niệm “mở rộng dân chủ” mà mấy mươi năm trước, Trần Xuân Bách đã
bác bỏ:” Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn
ban ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng thấy bất tiện thì thu hẹp.
Dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng”. Thực hiện nghị quyết
Đại hội 11, Hội nghị TƯ 4 ra Nghị quyết xây dựng Đảng, tìm biện pháp
khắc phục tình trạng mà một nhà lãnh đạo Đảng đã chẩn đoán”Tình trạng
suy thoái trong Đảng đã nặng lắm rồi, như căn bệnh ung thư đã di căn”.
Đáng buồn là biện pháp chủ yếu để trị “ung thư đã di căn” được HN TƯ 4
đề ra chỉ là “tự phê bình và phê bình chân thành xây dựng.” Nhà văn Vũ
Tú Nam xót xa bình luận”Đảng như con cá ngúc ngoắc trong ao cạn!”
Đến đây, đã có thể hiểu được vì sao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt
mục tiêu xã hội chủ nghĩa xa vời đến thế. Ông đã thấy “Tham nhũng tổ
chức thành đường dây chứ không phải từng người ăn mảnh….họ đua nhau tham
nhũng”. Đảng viên có chức, có quyền, “một bộ phận không nhỏ” là những
“tư bản đỏ” nắm quyền vận hành nền kinh tế theo thứ “chủ nghĩa tư bản
hoang dã”. Ông không thấy không thể nào “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối
với họ. Vậy thì, làm sao biết hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay
chưa! Ông thấy bất lực trước thực tế, nhưng tiếc thay tại sao vẫn cố
buộc cả dân tộc phải đi “đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!”?
Thưa Tổng bí thư, xin được nhắc lại lời của Alexander Ivanovich
Herzen, một nhà tư tưởng Nga lỗi lạc:” Mục đích mà xa bất tận thì không
phải là mục đích nữa,- nếu anh muốn, chỉ là mánh khóe thôi; mục đích thì
phải gần hơn, ít nhất cũng như tiền lương hay khoái cảm trong lao
động….Cuộc sống không thỏa mãn với những ý tưởng trừu tượng, không chịu
vội vã, cứ chậm chạp….Cho phép tôi được hỏi anh, do đâu mà anh cảm thấy
thế giới bao quanh chúng ta lại vững chắc và trường tồn đến thế?”.
II – TỪ BẢN KIẾN NGHỊ 1 NGƯỜI KÝ, ĐẾN “KIẾN NGHỊ 72”.
Đầu năm 1991, trước thềm Đại hội 7, tình hình kinh tế đã có chuyển
biến khá, nhưng đất nước chưa thoát khỏi khủng hoảng. Một số lão thành
cách mạng họp nhau nhận diện cuộc khủng hoảng và bàn bạc tìm lối ra. Các
cụ nhất trí giao cho ông Nguyễn Kiến Giang, nguyên Phó giám đốc Nhà
xuất bản Sự thật chấp bút. Đến tháng 3-1991 bản kiến nghị viết xong với
tựa đề là “Khủng hoảng và lối ra”. Các cụ họp lại đọc, tất cả đều tán
thành, nhưng chỉ có cụ Lê Giản, nguyên giám đốc Nha Công an đầu tiên
đồng ý ký tên, số còn lại mỗi người nêu một lý do để từ chối ký tên !
Bởi tháng 3 năm 1990 ông Trần Xuân Bách đã bị kỷ luật vì những luận điểm
ná ná bản kiến nghị này. Thế mới biết ở thời ấy nỗi sợ hãi thật là ghê
gớm. Trước tình hình đó, Nguyễn Kiến Giang đành xin phép các cụ một mình
ông ký tên và gửi cho Bộ chính trị!
Bản kiến nghị Khủng hoảng và lối ra dài hơn 17 trang giấy A4, hơn 10.000 từ. Xin lược ghi những điểm quan trọng.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
“Tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và kéo dài là hiện thực cơ bản
bao trùm toàn bộ đời sống xã hội nước ta không ai không thừa nhận….. Văn
kiện Đảng gọi là khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhưng thực chất của nó
là thế nào? Nguyên nhân chủ yếu của nó? Có khả năng ra khỏi khủng hoảng
hay không? Thoát ra bằng lối nào?
KHỦNG HOẢNG:
Đây là khủng hoảng toàn diện, khủng hoảng tổng thể của xã hội: kinh
tế và xã hội, tinh thần và đạo đức, tư tưởng và chính trị. Khủng hoảng ở
mỗi lĩnh vực vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của khủng hoảng ở các
lĩnh vực khác”
Các quan hệ sở hữu không phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, do
đó vẫn tiếp tục kìm hãm và phá hoại những năng lực sản xuất xã hội. Rõ
nhất là ở khu vực sở hữu nhà nước, đang biến thành ổ chứa những bệnh tật
hiểm nghèo: Tham nhũng, buôn lậu và lãng phí vô tội vạ…. Những phần tử
thoái hóa biến chất trong bộ máy nhà nước móc ngoặc với những phần tử
lưu manh kết thành những mafia có thế lực khá lớn.
Sự phân hóa xã hội không lành mạnh đang diễn ra…. Nghèo khổ lạc hậu
cộng với bất công xã hội làm cho tình hình xã hội rất ngột ngạt.
Trong hoàn cảnh đó, khủng hoảng về tinh thần là không thể tránh khỏi.
Chưa bao giờ con người sống chông chênh và lo lắng như bây giờ. Chưa
bao giờ đạo đức xã hội bị xói mòn và băng hoại như bây giờ. Tội ác xảy
ra ngày càng tăng, mang những hình thức nghiêm trọng hiếm thấy… Các giá
trị tinh thần bị lật ngược: Người ngay sợ kẻ gian, người lương thiện có
năng lực sống khổ cực hơn kẻ cơ hội; xu nịnh trở thành “mốt” phổ biến.
Khủng hoảng có khía cạnh quốc tế của nó. Xu thế dân chủ hóa phát
triển rộng rãi và mạnh mẽ. Trong khi đó nước ta vẫn sống trong thế cô
lập với thế giới bên ngoài. Tính chất lạc hậu, lạc điệu của nước ta càng
nổi bật lên,tạo thành một sức ép tinh thần lớn đối với nhân dân, nhất
là lớp trẻ và giới trí thức..
Khủng hoảng ở nước ta hiện nay tập trung nhất ở khủng hoảng chính
trị. Đảng duy trì địa vị độc tôn quá lâu, biến sự lãnh đạo của mình là
một tất yếu khách quan trong đấu tranh giải phóng dân tộc thành chế độ
đảng trị hiện nay là một áp đặt chủ quan… Đảng đã tự đánh mất uy tín vốn
có. Trong điều kiện đó không thể nói tới một nhà nước pháp quyền. Xã
hội gần như sống không có luật pháp. Chỉ cần nhắc tới một sự thật là đã
phát hiện 10.000 vụ tham nhũng, nhưng chỉ đưa ra xét xử vài chục vụ mà
cũng không xét xử đến nơi đến chốn.
LỐI RA:
Về mặt quốc tế: Quốc tế hóa kinh tế, tiến bộ khoa học – công nghệ,
dân chủ hóa đời sống xã hội của nhân loại đang tạo cho chúng ta những
điều kiện hòa chung vào trào lưu văn minh hiện đại.
Trong nước, những lực lượng ủng hộ đổi mới có khắp nơi, chỉ cần có sự lãnh đạo sáng suốt. Có 2 điểm cần làm rõ:
1- Bài học từ Đông Âu không phải là kìm giữ, bị động đối phó với dân
chủ hóa và đổi mới chính trị mà phải là chủ động thực hiên dân chủ hóa
và đổi mới chính trị từng bước vững chắc, triệt để.
2- Dân chủ hóa không đe dọa sẽ tước mất vai trò lãnh đạo của Đảng.
Chỉ có đảng nào không gắn bó với nhân dân, biến sự lãnh đạo của mình
thành chế độ đảng trị và cố bám giữ lấy nó thì mới bị sụp đổ.
Chuẩn bị mảnh đất tốt cho sự phát triển lâu dài của đất nước trên nền
tảng văn minh chung của loài người đã được khảo nghiệm là: Xã hội dân
sự (Nguyễn Kiến Giang dùng thuật ngữ “xã hội công dân”); kinh tế thị
trường; nhà nước pháp quyền.
Phải tách Đảng ra khỏi các chức năng nhà nước, tách nhà nước ra khỏi
chức năng quản lý, điều hành kinh tế, mới có thể vận hành có hiệu quả
guồng máy kinh tế- xã hội.
Thay đổi quan hệ sở hữu: Chuyển sở hữu nhà nước thành sở hữu cổ phần
và sở hữu tư nhân những phần còn lại. Đối với nông dân thực hiện quyền
có (droit de possession) về ruộng đất lâu dài, kể cả quyền thừa kế và
chuyển nhượng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng xây dựng xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền sát chuẩn mực quốc tế.
Phát huy năng lực trí tuệ của giới trí thức. Tôn trọng tự do tư
tưởng, tự do sáng tác, tự do báo chí. Xóa bỏ độc quyền chân lý là một
yêu cầu bức bách về chính trị.
Chuyển quyền lực chính trị từ các cơ quan Đảng sang các cơ quan đại
diện quyền lực nhân dân. Tuyên bố xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp quy định vai
trò của Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội chỉ được thực hiện bằng phương pháp
thuyết phục.
Mặt trận Tổ Quốc đứng ra triệu tập một Đại Hội quốc dân mới theo kinh
nghiệm Đại hội quốc dân ở Tân Trào trước khởi nghĩa Tháng 8 1945 để bàn
và quyết định Một chương trình khắc phục khủng hoảng.
Theo tinh thần hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc, Đảng chỉ cần bảo
đảm cho mình một nửa số đại biểu, hoặc một đa số tương đối trong Quốc
hội.
Bản kiến nghị với những điều đặt ra hết sức thiện chí đã bị xếp xó.
Do đó mà sau 22 năm, tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước đã
tăng lên theo cấp số nhân! Thực tế đất nước và nguyện vọng bức xúc của
nhân dân đã hun đúc đưa tới sự ra đời của Bản kiến nghị 72. “Kiến nghị
72” là liều thuốc mạnh chữa một bệnh trạng của Đảng độc quyền lãnh đạo
“ung thư đã di căn”, gồm các điểm quan yếu:
- Theo nguyên tắc chủ quyền nhân dân, không định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc một tổ chức chính trị.
- Quy định quyền con người theo đúng tinh thần Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 và các Công ước quốc tế.
- Đất đai thuộc nhiều quyền sở hữu: tư nhân, tập thể, cộng đồng, nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập.
- Quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân.
- Quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc.
Trí tuệ và tầm vóc lớn lao của kiến nghị lần này không phải ở con số
gấp 72 lần, cũng không phải 15.000 lần tương ứng với số người đã hưởng
ứng ký tên. Điều quan trọng là nó mang sức mạnh tỉnh thức của nhân dân,
nhận ra cái tất yếu nhất thiết phải xảy ra! Một số nhà lý luận “phò
chính thống”(theo cách nói của Nguyễn Kiến Giang) cố cãi chày cãi cối
rằng, 72 hoặc 15000 vẫn là thiểu số. Các ông không nhớ rằng, Kim Ngọc,
người khai sinh khoán 10 là rất thiểu số! Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1945 với 5000 đảng viên là rất thiểu số! Vấn đề không phải là ít hay
nhiều mà là tiềm năng có thể nhân lên nhanh chóng để chiến thắng, hoặc
ngược lại thì, dù là một thực thể khổng lồ nhưng rất dễ bị thoái hóa,
lụi tàn. Điều quyết định là ở chỗ thuận theo lòng dân và hợp với xu thế
tất yếu của thời đại.
Tiếc thay, bản Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh vừa được thông qua,
chẳng những không đếm xỉa góp ý của nhân dân mà còn bác bỏ nhiều điều đã
được chính Chính phủ gồm có ủy viên Bộ chính trị, ủy viên BCH TƯ đã
thảo luận và biểu quyết !
III. XIN CHỚ VỘI REO MỪNG, CŨNG ĐỪNG BUỒN TANG KHỐC!
Vô cùng trân trọng sự âu lo của nhà văn Võ thị Hảo khi nghe bà đau
đớn kêu lên, ngày thông qua Hiến pháp là ngày tang khốc của dân tộc! Xin
đừng quá đau buồn, hãy nhìn kìa, sự tất yếu vẫn cứ đang lừng lững đi
tới!
Biên soạn bản Hiến pháp này, người ta đã rất dày công, khéo léo chọn
từng câu, tìm từng chữ để hóa trang cho nó có bộ mặt dân chủ, nhân
quyền. Trước kia, Stalin, Mao Trạch Đông không cần điều đó. Nói chi xa,
Hiến pháp 1980 không cần điều đó. Nghĩa là thời đại đã dần dần buộc dù
muốn toàn trị cũng không được ngang nhiên, mà phải khéo diễn đạt bằng
ngôn từ tự do dân chủ! Và khi đã đóng vai ông Thiện thì không thể vung
dùi cui bạt mạng được!
1 – “Viết hoa chữ Nhân dân”
Ngày 9-12 2013 họp báo công bố Hiến pháp, ông Phan Trung Lý chủ nhiệm
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho biết “Lần đầu tiên trong Hiến pháp,
chúng ta viết hoa chữ “Nhân dân nâng lên một bước vai trò của Nhân dân,
Hiến pháp trước hết khẳng định chủ quyền của Nhân dân”.
Viết hoa chữ nhân dân là học cách nói của nhà văn Maksim Gorky khi
ông nói “Con người viết hoa” để tỏ ý trân trọng con người lao động và tự
do, chứ không phải ông viết hoa chữ con người trong các tác phẩm của
mình! Tuy vậy, không vì cách nói của ông mà làm cho nhà nước xô viết
Stalin tôn trọng con người, để nhờ đó mà tránh khỏi diệt vong. Các nhà
ngôn ngữ sẽ cho ý kiến cách viết đó có đúng ngữ pháp hay không, nhưng
vấn đề cần nói là liệu viết hoa tất cả chữ nhân dân trong Hiến pháp có
tạo ra được điều kiện để khẳng định chủ quyền nhân dân trong thực tế?
Xin nêu 2 điểm sau đây để cùng suy nghĩ:
- Khiếu kiện là một hình thức tỏ bày ý kiến rất cao so với những kiến
nghị ở các cuộc họp, hoặc góp ý của cử tri. Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng nói”Không ai thích thú gì đi khiếu kiện”. Vậy thì tại sao người
dân bắt đầu khiếu kiện suốt hơn 10 năm qua mà cho đến nay nguyên nhân
chính của nó là lời hứa “người cày có ruộng” từ những năm 30 và trước
cuộc cải cách ruộng đất ở thế kỷ trước, vẫn chưa được ghi nhận trong
Hiến pháp này? Chắc chắn rồi đây, người nông dân sẽ không thể câm lặng!
– Chủ quyền nhân dân nằm trong cái khung của Cương lĩnh! Đại biểu
Dương Trung Quốc khi trả lời chuyện ông không bỏ phiếu tán thành Hiến
pháp :“Khi đặt lên bàn thì phải nói là các nhà lãnh đạo Quốc hội
cũng rất muốn mở rộng dân chủ để mọi người tham gia. Có lẽ cuộc thảo
luận đó nó đã khá rộng rãi và nó đi quá giới hạn mà theo tôi quan niệm,
là vượt quá xa Cương lĩnh của Đảng cộng sản cho nên về sau họ điều chỉnh
lại”. Như vậy “chủ quyền nhân dân” không thể vượt qua cái khung mà Đảng đặt ra trước đó!
2 – Ở các nước dân chủ, Hiến pháp là quyền lực tối thượng.
Các Đảng cầm quyền ở các xã hội dân chủ phải xây dựng cương lĩnh của
Đảng sao cho nhân dân thấy rằng Cương lĩnh đó có chất lượng thực thi
Hiến pháp hiệu quả nhất. Khi quyền con người được Hiến pháp ghi nhận thì
nhân dân cứ theo đó mà thực hiện, không phải “theo quy định của pháp
luật”để cắt xén vô lối. Ngay dưới chế độ thực dân Pháp, ngày 22-7-1938,
Đảng cộng sản Việt Nam đã ra báo Dân chúng không xin phép tại số nhà 43-
đường Hamelin (nay là Lê thị Hồng Gấm, quận 1, TP HCM). Chính quyền
thực dân Pháp đã chấp nhận. Chẳng lẽ sau nửa thế kỷ đổ bao xương máu để
giành độc lập, tự do, người Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận
theo Hiến pháp lại bị trấn áp bởi Đảng cộng sản mà mình đã cưu mang?
Chẳng lẽ người Việt Nam có một nhà nước “dân chủ gấp vạn lần hơn” như
lời bà Phó chủ tịch nước, lại không thể tự do lập ra một cái Hội nhà văn
cỡ như Tự lực Văn đoàn dưới nanh vuốt của thực dân Pháp? Nhà nước Việt
Nam vừa đắc cử vào Hội đồng Nhân quyền thế giới với số phiếu cao tuyệt
đối. Vậy thì thế giới nhìn vào Việt Nam, họ sẽ nghĩ sao? Và nhân dân
Việt Nam nhìn ra thế giới sẽ nghĩ sao về thân phận của mình? Xin đừng
quá bi quan! Một sự kiện có tính lịch sử: ngày 23 tháng 9-2013, Diễn
đàn xã hội dân sự đã ra đời với một Ban cố vấn gồm có 8 vị có uy tín đã
công khai danh tính. Diễn đàn xã hội dân sự thành lập trang mạng với
bài vở nhiều chiều, phong phú, do Tiến sĩ Nguyễn Quang A và nhóm trị sự
điều hành, qua 2 tháng có hàng triệu khách ghé thăm. Sự kiện này có hai ý
nghĩa: Đảng cầm quyền và Nhà nước Việt Nam muốn chứng minh quyền con
người được ghi trong Hiến pháp là có thực; mặt khác, người Việt Nam cũng
đã bắt đầu hiểu rằng quyền con người là do “tạo hóa ban tặng”, không
phải cúi xin và chờ được cho. Rồi từ đó, quyền dân chủ của công dân cũng
sẽ được hiểu như thế, phải đòi hỏi một chế độ bầu cử tự do để có một
Quốc hội thực sự của dân, do dân, vì dân.
3- “Đảng phải như thế nào mới là Đảng lãnh đạo chứ!”
Để chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam xứng đáng là Đảng lãnh đạo, TBT
Nguyễn Phú Trọng nói: “Một Đảng gần dân, liên hệ mật thiết với nhân dân,
bảo vệ quyền lợi của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân và chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đảng như thế
mới là Đảng lãnh đạo chứ!”.
Như vậy là từ nay nhân dân sẽ đòi: Không thể để cho một ông Tổng bí
thư Nông Đức Mạnh bất chấp việc Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, ngang
nhiên khẳng định Trường Sa, Biển Đông là của họ, vẫn cứ sang Tàu cam kết
đưa họ lên vùng đất Tây nguyên có ý nghĩa chiến lược về an ninh, để
khai thác bô xít, tàn phá môi trường, đe dọa nguồn nước sông Đồng Nai,
bán alumina cho họ dưới giá thành, mà không bị gọi ra tòa! Từ nay, Đảng
sẽ phải chịu trách nhiệm về việc “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”
ghi trong Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh”, nếu nó tiếp tục gây thất
thoát cỡ Vinashin. Đảng sẽ phải chịu trách nhiệm về việc từ chối nội
dung nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, nếu nạn tham nhũng tiếp
tục hoành hành không thể ngăn chặn. Nhân dân phải có tiếng nói của mình
khi câu “tình trạng tham nhũng diễn biến phức tạp, chưa ngăn chặn được”
cứ lặp đi lặp lại từ nghị quyết Đại hội này sang Đại hội khác. Mới đây,
ngày 13-12- 2013, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Việt Nam tham nhũng
đứng thứ 4 Châu Á, chỉ khá hơn 3 nước đại tham nhũng là Bắc Triều Tiên,
Apganistan, Somalia. Đảng sẽ phải chịu trách nhiệm, nếu như năm 2014, Tổ
chức Minh bạch thế giới lại tiếp tục có đánh giá tương tự ?
Cái tất yếu sẽ đến một cách hòa bình như vậy. Trong xu thế hội nhập
quốc tế không có điều gì bưng bít được, cũng không có điều gì bị kiêng
kỵ cho rằng chỉ phù hợp với Phương Tây. Bởi ông cha ta ngày xưa đã dám
cắt bỏ cái búi tóc mà theo văn hóa truyền thống “ cái tóc là gốc con
người”, tức là các cụ đã theo phương Tây đấy!
Lịch sử cho thấy thấy xu thế tất yếu nhất thiết phải xảy ra, không có
thế lực nào ngăn chặn được. Nhưng tùy hoàn cảnh, điều kiện, nó sẽ đến
nhanh hay chậm và với hình thức nào. Con người có thể tác động để tạo
ra điều kiện tương ứng. Nếu các thế lực độc tài, bảo thủ điên cuồng ngăn
chặn bằng vũ lực thì cái tất yếu sẽ đến cùng với gươm và súng. Đó là
bài học Lybia, Syria. Tuy không cưỡng chế nhân dân bằng vũ lực, nhưng
lại cố chần chừ, không chịu mau chóng cải cách chính trị thì, nó sẽ đến
với cách mạng hoa cam, hoa nhài, như ở Ucraina. Dù không đổ máu, nhưng
nó cũng gây xáo trộn, ngưng trệ sự phát triển đất nước. Sẽ rất may mắn
nếu như đất nước có những nhà cầm quyền sáng suốt cùng nhân dân cải cách
chính trị, thực hiện tự do, dân chủ thì “cái tất yếu” sẽ đến với nụ
cười và niềm vui hòa hợp, hòa giải. Đó là cuộc Đổi mới kinh tế,(có thể
gọi là “cải cách một nửa”!) của Đại hội 6 ở Việt Nam và cải cách triệt
để như Myanmar mới đây. Cải cách triệt để, toàn diện để đất nước không
phải qua cách mạng hoa cam, hoa nhài đang là tâm nguyện của người Việt
Nam yêu nước. Có thể tin rằng, cuối cùng các nhà lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam hôm nay sẽ vận dụng tốt nhất bài học từ Đại hội 6 của Đảng
cộng sản Việt Nam để đón “cái tất yếu” đang hòa bình đi tới với nụ cười
hòa hợp, hòa giải, đại đoàn kết dân tộc!
Ngày 17-12- 2013
T.V.C.
* Ông Tống Văn Công nguyên là Tổng biên tập báo Lao động.