Thụy My, RFI
Trước đây trong bài trả lời phỏng vấn mang tựa đề “Hậu hội đồng nhân quyền: Dân chủ Việt Nam sẽ ra sao?” trên
RFI ngày 02/12/2013, nhà bình luận Phạm Chí Dũng có nhận định là đã
“bắt” được tín hiệu về việc Nhà nước Việt Nam đang dần phải thừa nhận mô
hình xã hội dân sự. Hôm nay chúng tôi xin phép trao đổi thêm về vấn đề
này với ông Phạm Chí Dũng.
RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí
Dũng. Trong lần trả lời phỏng vấn trước đây anh có nhận xét là có những
dấu hiệu cho thấy Nhà nước Việt Nam tỏ ra cởi mở hơn về vấn đề xã hội
dân sự (XHDS). Có vẻ tín hiệu đó đang rõ hơn trên mặt báo Đảng trong
những ngày gần đây?
Chắc chắn là đã rõ hơn, chẳng hạn bài “Không để các tổ chức xã hội dân sự bị lợi dụng” đăng
trên báo Quân đội Nhân dân ngày 08/12/2013. Bởi đây là lần đầu tiên
xuất hiện một bài viết trên báo Đảng thừa nhận khái niệm “tổ chức xã hội dân sự”, và cụm từ « Xã hội dân sự » cũng không còn bị đặt trong ngoặc kép như cách diễn đạt đầy định hướng “thù địch” như trước đây.
Chúng ta có thể nhận ra là không phải ngẫu nhiên mà trước bài “Không để các tổ chức xã hội dân sự bị lợi dụng”, báo Quân đội Nhân dân vào ngày 24/11/2013 cũng đã có bài “Cần hiểu đúng về Xã hội dân sự”,
với khái niệm nhạy cảm này được đặt trong ngoặc kép. Bài báo này nêu ra
bốn khái niệm về XHDS, nhưng đáng chú ý là nhắc lại một khái niệm của
Liên minh vì sự tham gia của công dân (CIVICUS) 2005: “Xã hội dân sự
là Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người
bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”.
Cần chú ý là khái niệm này được nêu ra trong một bản báo cáo khảo
sát về XHDS mà Viện Những vấn đề Phát triển của Tiến sĩ Nguyễn Quang A
là một thành phần tham gia nghiên cứu. Vào khoảng năm 2010, viện này đã
bị Chính phủ ra văn bản đóng cửa. Ông Nguyễn Quang A cũng là một nhân
vật được coi là “rất nhạy cảm” đối với chân đứng của chế độ và hiện nay
đang phụ trách chính trang mạng Diễn đàn Xã hội Dân sự cũng nhạy cảm
không kém.
Dù chỉ mới phát tác đôi chút, nhưng sự thay đổi tâm tính của báo
Đảng về cách nhìn và có thể cả cách hành xử đối với XHDS khiến giới quan
sát không thể không liên tưởng đến bối cảnh ra đời của các bài báo này.
Bài “Cần hiểu đúng về Xã hội dân sự” trên báo Quân đội Nhân dân xuất hiện gần hai tuần sau sự kiện Nhà nước Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Đáng chú ý là bài này nêu ra câu hỏi: “Chúng ta phải làm gì để người dân hiểu đúng về “xã hội dân sự” và phát huy những mặt tích cực của nó?”. Tuy vẫn đòi hỏi “vạch trần bản chất sự cơ hội, lợi dụng hoặc mù quáng ảo tưởng về cái gọi là xã hội dân sự”,
nhưng dù sao bài viết này cũng đề nghị một số giải pháp như cần có các
hội thảo riêng về cái gọi là “xã hội dân sự” làm rõ lịch sử khái niệm,
cái được, cái mất, cái tốt, cái xấu của nó.
Còn bài “Không để các tổ chức xã hội dân sự bị lợi dụng” cũng
của báo Quân đội Nhân dân lại chỉ cách thời điểm Ngoại trưởng Hoa Kỳ
John Kerry viếng thăm Việt Nam có một tuần. Bài này “tiến bộ” hơn bài
trước đôi chút với sự thừa nhận “Sự ra đời, phát triển của XHDS là
một đòi hỏi khách quan đối với mọi xã hội. Chúng ta không phủ nhận những
đóng góp của tổ chức XHDS đối với sự phát triển của xã hội”.
Bên cạnh đó là: “Cùng với thừa nhận sự tồn tại khách quan của
các tổ chức XHDS, quan tâm tạo điều kiện để các tổ chức XHDS hoạt động
đúng hướng, phục vụ lợi ích của đất nước và dân tộc, tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật, chúng ta cần nhận thức rõ và khắc phục những hạn chế,
thách thức của nó đối với sự phát triển xã hội ”. Cũng như:
“Nhận thức đúng đắn về XHDS là cơ sở để chúng ta đấu tranh chống mọi tư
tưởng, quan điểm, hành vi lợi dụng XHDS chống phá Việt Nam; để các tổ
chức XHDS phát triển lành mạnh, phát huy tốt vai trò, tác dụng của mình
đối với các hội viên, thành viên và toàn xã hội”.
Rõ ràng đã có một sự chuyển giọng trên cùng một tờ báo, hoặc trong
cùng một khẩu ngữ của thể chế, trong bối cảnh rất thách thức về đối
ngoại chính trị.
RFI: Còn nhớ chỉ mới năm ngoái xã hội dân sự còn bị báo Đảng xem là “thủ đoạn của diễn biến hòa bình”?
Nếu so sánh, có thể thấy chất giọng của báo Đảng cách đây một năm là
khắc nghiệt hơn nhiều. Một trong những minh chứng đặc trưng cho tâm thế
đó là một bài viết trên báo Nhân Dân điện tử ngày 31/08/2012 với tiêu
đề “Xã hội dân sự - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình”.
Khi đó, bài báo Nhân Dân nhận định: “Nếu XHDS mạnh, thì sẽ dẫn
tới vô chính phủ, bất ổn về xã hội và chế độ sẽ sụp đổ. Ðây chính là lý
do để các thế lực thù địch quan tâm nghiên cứu, vận dụng, nhằm lợi dụng
vai trò của XHDS trong hoạt động lật đổ một chế độ như họ đã thực hiện
tại một số nước trong thời gian qua”.
Còn vài năm trước, giới tuyên giáo Đảng vẫn duy trì cách nhìn một
chiều về XHDS, cho rằng: một số học giả trên thế giới có quan điểm chống
cộng rất đề cao vai trò của XHDS trong các cuộc “cách mạng màu” lật đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) tại Ðông Âu trước đây.
Ở Ðông Âu thời trước, có những “tổ chức chính trị đối lập” hình
thành, phát triển và hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức XHDS”, như
Công đoàn Ðoàn kết ở Ba Lan, Hội Văn hóa Ucraina ở Liên Xô trong những
năm 80 của thế kỷ XX… Tương tự, tại Tiệp Khắc, với sự hỗ trợ của bên
ngoài, các đối tượng chống đối chế độ đã thành lập Phong trào Hiến
chương 77 làm hạt nhân. Các cuộc “cách mạng đường phố” tại các nước vùng
Trung Ðông - Bắc Phi thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ
quan đặc biệt nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ (NGO), trong việc hỗ
trợ các tổ chức XHDS lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ chế độ.
Giới tuyên giáo Đảng cũng gìn giữ đến mức sắt son tinh thần bảo thủ
khi cho rằng các nước, các tổ chức quốc tế, các NGO nước ngoài đang tìm
mọi cách để hình thành, phát triển XHDS theo tiêu chí phương Tây ở Việt
Nam, qua đó thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ XHCN bằng biện pháp “bất
bạo động”, “phi vũ trang”. Hoạt động này nằm trong ý đồ thực hiện “tiến
trình dân chủ ở Việt Nam” với mục đích lợi dụng XHDS để gây mất ổn định
chính trị, tiến tới thay đổi chế độ như xảy ra tại các nước Ðông Âu,
thuộc Liên bang Xô Viết trước đây và Trung Ðông - Bắc Phi thời gian qua.
Cuối cùng là thái độ chụp mũ xảy ra vào năm 2012 khi một số báo Đảng
cho rằng: một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm chống đối cực
đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội
thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về
Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến
pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do
dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư
hữu hóa đất đai…
Cũng theo các báo Đảng: « Nếu thực hiện các nội dung này theo ý đồ
của họ thì chế độ xã hội chủ nghĩa thực tế sẽ không còn tồn tại ở Việt
Nam. Ðây là phương thức đấu tranh công khai rất nguy hiểm, nếu không
cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS
để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật
pháp xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp dân chủ, tư sản ».
Những bài báo có cách nhìn rất phiến diện về XHDS như vậy xuất hiện
trong bối cảnh tình trạng nhân quyền ở Việt Nam nóng hổi, trong những
cáo buộc của các tổ chức nhân quyền và một số nhà nước tiến bộ trên thế
giới. Đây cũng là thời điểm mà làn sóng bắt bớ những người bất đồng
chính kiến dâng cao và cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ vào cuối năm
2012 đã bị phía Hoa Kỳ hủy bỏ.
RFI: Hai bài báo gần đây của
tờ Quân đội Nhân dân mà anh vừa nêu ở trên có thể cho thấy sự đổi khác
nào trong tư duy của giới lãnh đạo Việt Nam về XHDS?
Giới quan sát chính trị ở Việt Nam và quốc tế có lẽ đã hiểu rất rõ
rằng những thay đổi về đường lối và nhận thức của đảng cầm quyền thường
được biểu hiện qua hệ thống truyền thông của Đảng, đặc biệt qua những cơ
quan ngôn luận như báo Nhân Dân và Quân đội Nhân dân. Trên hai tờ báo
này luôn có các mục “Bình luận - phê phán” và “Phòng, chống diễn biến hòa bình”,
thường tập trung chỉ trích, công kích “các luận điệu sai trái và thù
địch” đối với hệ thống truyền thông quốc tế như đài VOA, RFA, BBC, RFI…
và một số trang web, blog của giới truyền thông xã hội.
Nhiều năm qua và gần nhất là từ đầu năm 2013 đến nay, có thể thấy
các sự kiện liên quan đến nhóm “Kiến nghị 72”, vụ tuyệt thực của hai tù
nhân lương tâm Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, đề xuất thành
lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng hay hoạt động của Mạng lưới
blogger Việt Nam đều hiện diện như một phần tất yếu trên mặt báo Đảng.
Tình hình đó cho thấy Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, cơ
quan tuyên giáo trung ương đã thấm thía và đặc biệt lo ngại về các diễn
biến bất đồng tư tưởng. Tất nhiên những người theo đường lối “kiên định
xã hội chủ nghĩa” không muốn bỏ qua những phản ứng tư tưởng nổi bật và
có sức lan tỏa lớn ngoài xã hội.
XHDS cũng là một trong những tiêu điểm của công tác “phản tuyên
truyền” của Ban Tuyên giáo Trung ương và các báo Đảng. Nhưng vào lần
này, hiển nhiên đang có một chuyển động thầm kín và có chút tự ti trong
lòng họ. Họ đang chuyển từ thái độ phủ nhận XHDS một cách cực đoan sang
cách nhìn bắt buộc phải chấp nhận XHDS, như một thực thể khách quan của
xã hội trong xu hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên sự chuyển biến này
không thể hy vọng là nhanh chóng, mà sẽ rất chậm chạp.
RFI: Theo anh từ những nguyên do nào mà lại có sự đổi thay về nhìn nhận XHDS trong giới lãnh đạo Việt Nam?
Cần nhắc lại, XHDS là một quy phạm đã được phái đoàn thường trực của
Nhà nước Việt Nam cam kết, nằm trong 14 điều cam kết của Việt Nam trước
chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 8/2013. XHDS cũng
là một yêu cầu mà phía Hoa Kỳ nêu ra như một trong những ưu tiên đối với
lộ trình dân chủ hóa ở Việt Nam. Bắt đầu từ cuộc gặp thượng đỉnh giữa
hai nguyên thủ quốc gia Việt - Mỹ vào tháng 7/2013 và sau đó là một số
chuyến ngoại giao con thoi, chính thức lẫn không chính thức, giữa hai
quốc gia này.
Những cuộc gặp gỡ mang tính thúc đẩy như thế lại lồng trong bối cảnh
Nhà nước Việt Nam đang rốt ráo vận động cho một vị trí trong Hiệp định
Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP. Có lẽ cũng cần
nhắc lại là nếu vai trò thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp
quốc chỉ mang tính danh nghĩa mà không dẫn dắt trực tiếp đến một nguồn
lợi nào về kinh tế, thì TPP được coi là một trong những chiếc phao cứu
sinh đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế Việt Nam lại đang lâm vào
tình trạng quá quẫn bách, quẫn bách đến nỗi cạn kiệt về nội lực mà chỉ
có thể trông mong vào những nguồn ngoại viện chủ yếu từ Hoa Kỳ, Tây Âu
và Nhật Bản, và có thể từ cả “bạn vàng” Trung Quốc.
Từ khung cảnh hòa đồng lẫn hỗn mang về kinh tế và chính trị như thế,
chúng ta có thể thấy tiến trình hình thành XHDS ở Việt Nam là một xu
thế mang tính tất yếu. Xu thế này dựa vào chính nhu cầu của nhiều tầng
lớp người dân Việt Nam về ít nhất các quyền dân sinh, tự do ngôn luận,
tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do tôn giáo và những quyền khác như
biểu tình, lập hội, trưng cầu dân ý. Dù rằng tất cả những quyền này đã
được nêu ra trong bản Hiến pháp năm 1992 nhưng sau hơn hai chục năm, đến
bản Hiến pháp mới 2013 vẫn không được luật hóa.
Xu thế tất yếu về XHDS ở Việt Nam cũng được biểu đạt từ 11 cuộc biểu
tình chống Trung Quốc can thiệp vào khu vực Biển Đông trong năm 2011,
đến hàng loạt kiến nghị của nhóm “Kiến nghị 72” trong năm 2013, cho đến
sự hình thành một số tổ chức dân sự trong nước, mà thực chất là tổ chức
phi chính phủ. Chẳng hạn như Mạng lưới blogger Việt Nam, Phong trào Con
đường Việt Nam, Ủy ban Công lý Hòa bình của giới Công giáo, và gần đây
là nhóm Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam và Hội Bầu bí Tương thân… Hiện nay có
ít nhất 11-12 nhóm dân sự lớn nhỏ đã và đang hình thành ở Việt Nam.
Xu thế hình thành các tổ chức dân sự cho thấy dù muốn hay không, Nhà
nước Việt Nam vẫn phải dần chấp nhận sự tồn tại của những tổ chức này
và có thể còn nhiều tổ chức dân sự khác, miễn là những hoạt động dân sự
đó không “nhằm ý đồ chính trị hoặc lật đổ chính quyền”.
Đó cũng là lý do vì sao gần đây trong nội bộ Đảng dường như đã bắt đầu xuất hiện một luồng quan điểm thừa nhận “XHDS là một vấn đề mới ở Việt Nam, đang thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều trí thức, công chức và nhân dân”, và “Về
bản chất xã hội dân sự có nhiều đặc điểm mang tính tích cực (hoạt động
trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý; vì mục tiêu rất tích cực) cần được
nghiên cứu, làm rõ và vận dụng phù hợp vào điều kiện thực tiễn nước ta”.
RFI: Nhưng vẫn còn rất nhiều
khó khăn để hình thành một XHDS đúng nghĩa ở Việt nam. Theo anh kịch bản
nào có thể xảy ra cho XHDS trong những năm tới?
Cho dù Đảng có thể “chủ động nghiên cứu và vận dụng XHDS”,
tôi vẫn có cảm giác như sự thay đổi về nhận thức và hành vi đối xử của
Đảng đối với XHDS hiện thời và trong ít nhất một năm tới không xuất phát
từ lòng thành tâm chính trị như một tố chất đã được chiết xuất ở Miến
Điện, mà chủ yếu vẫn mang tính đối phó, và chủ yếu là đối phó với trào
lưu đối ngoại, trong thế chẳng đặng đừng.
Tôi cũng có cảm giác là đối sách của Đảng đối với XHDS đang có nhiều
nét tương đồng với giai đoạn năm 2006 – 2009. Đó là khoảng thời gian mà
Nhà nước Việt Nam được hứa hẹn và sau đó được gia nhập vào Tổ chức
Thương mại Thế giới, được dỡ bỏ khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm
đặc biệt về tôn giáo và nhân quyền của Quốc hội Hoa Kỳ. Khi đó, một số
cuộc hội thảo về XHDS đã được Nhà nước tổ chức, nhưng chủ yếu bao gồm
thành phần giới chức Đảng và các cơ quan nghiên cứu và quan chức của
chính quyền, chứ không được nổi bật bởi thành phần trí thức phản biện
độc lập.
Trong vài ba năm đó, những cuộc hội hảo, tọa đàm đã chỉ bàn luận chủ
yếu về vấn đề học thuật của XHDS như XHDS là gì, kinh nghiệm về XHDS ở
các quốc gia phát triển trên thế giới, một số đặc điểm của XHDS ở Việt
Nam, nhưng lại nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức hội đoàn nhà nước
chứ không phải hội đoàn tư nhân và càng không làm rõ vai trò của các hội
đoàn thiện nguyện trong các tôn giáo. Nhưng câu hỏi “Làm thế nào để có XHDS?” vẫn
luôn là một bế tắc đầy cố tình. Cuối cùng, các cuộc hội thảo này đã kết
thúc mà không có bất kỳ một lộ trình cụ thể nào cho việc triển khai
XHDS ở Việt Nam, dù một số trí thức phản biện độc lập đã nêu ra không ít
kiến nghị.
Rất có thể vào lần này, Nhà nước Việt Nam cũng muốn thực hiện đối
sách mang tính đối phó như thế, như một cách trì hoãn thời gian theo
phương châm “vừa mềm dẻo vừa đấu tranh”. Còn nếu sau hai đến ba
năm nữa mà nền kinh tế Việt Nam trở lại thời được coi là hoàng kim như
năm 2007 và thế đứng của thể chế cũng đỡ mong manh hơn hiện thời, hoàn
toàn không loại trừ vấn đề XHDS sẽ không còn được xem là một nhu cầu,
yêu cầu của dân chúng.
Thậm chí sẽ không còn được nêu ra trong bất cứ cuộc hội thảo nào,
còn những tổ chức dân sự mang tính hành động cao nhất sẽ có thể bị sách
nhiễu, và lãnh đạo của họ sẽ có cơ hội trở thành tù nhân lương tâm. Cũng
cần nói thêm là cho đến nay, ở nhiều tỉnh thành, cách nhìn đối với XHDS
vẫn còn rất hà khắc, thậm chí cụm từ này bị coi là một điều cấm kỵ và
rất gần gũi với nghĩa “phản động”.
Thế nhưng tôi vẫn hy vọng tình hình những năm tới sẽ khác hơn là
giai đoạn 2006-2009. Cơ sở của sự khác biệt, có thể xem là sự khác biệt
cơ bản như thế, là tất cả các yếu tố về hạ tầng kinh tế, mức độ bất bình
đẳng xã hội gây ra bởi các nhóm lợi ích và thân hữu, niềm tin dân
chúng, phản ứng xã hội. Và cả điều được coi là “đoàn kết” trong nội bộ
Đảng hiện thời đã chênh biệt rất nhiều so với thời gian trước đây - một
sự chênh lệch đủ lớn để không làm cho bất kỳ dĩ vãng nào có thể tái
hiện. Nói cách khác, Nhà nước Việt Nam đã quá thụt lùi trong hoạt động
điều hành quản lý kinh tế - xã hội, ít nhất tính từ thời mở cửa kinh tế
những 90 của thế kỷ trước, và hậu quả của sự thụt lùi này là rất khó có
thể cứu vãn.
Một khi quá khứ khó hoặc không thể lặp lại, và theo phân tích riêng
của tôi thì sẽ hầu như không còn cơ hội để lặp lại, những người cầm
quyền ở Việt Nam chỉ có thể chọn một trong hai con đường: hoặc đi ngược
với quy luật, xu thế và các trào lưu về hội nhập quốc tế và do đó sẽ
mang đến cho họ những nguy hiểm khôn lường về thế tồn vong chính trị và
cả tài sản cùng mối an nguy cá nhân. Hoặc phải bắt nhập những vận động
quốc tế một cách thành tâm hơn, sẵn lòng thừa nhận và chấp nhận mô hình
XHDS hơn. Như những gì mà Tổng thống Thein Sein và các thuộc cấp của ông
đã và đang tương đối thành công, trong mối quan hệ với người dân và
đảng Liên đoàn Quốc gia Vì dân chủ của bà Aung San Suu Kyi ở Miến Điện.
Một chính thể có bản lĩnh là chế độ không e ngại, không e sợ sự tồn
tại và phát triển của XHDS. Nếu vận dụng được những mặt mạnh của XHDS,
chế độ đó chắc chắn sẽ được lòng dân hơn và tuổi thọ của nó cũng sẽ kéo
dài hơn. Còn nếu vẫn khăng khăng khống chế và đàn áp XHDS thì sự sống
của chế độ sẽ chỉ còn tính bằng năm tháng.
RFI: Chúng tôi rất cám ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã nhận lời trao đổi với RFI Việt ngữ trong chương trình hôm nay.