Nguyễn Thành Công, cựu chiến binh QĐND Việt Nam
Thông thường khi một người đáng kính qua đời thì thân nhân cảm thấy
đau đớn, thương tiếc. Nếu người đó có uy tín trong xã hội thì nhiều
tầng lớp nhân dân sẽ thương tiếc như mất chính người thân của mình. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp mất đi đã được rất nhiều tầng lớp nhân dân đến
viếng với tấm lòng thành kính, chứng minh uy tín lớn lao của ông trong
xã hội. Với các cựu chiến binh quân đội nhân dân Việt Nam thì niềm
thương tiếc này còn sâu thẳm trong trái tim, không dễ nói thành lời.
Nghe tin đại tướng mất, anh em chúng tôi lập ban thờ và vái vọng để
tiễn biệt ông. Ngồi quanh bàn, các anh em mỗi người một chuyện nói về
tướng Giáp lúc sinh thời. Những câu chuyện về ông chủ yếu nghe được qua
các cuộc gặp gỡ với các bậc đàn anh trong quân đội, không có gì kiểm
chứng tính đúng sai nhưng vẫn gieo vào lòng chúng tôi niềm tiếc thương
đối với ông, người đã đạt chiến thắng vĩ đại trong chiến tranh, nhưng
thất bại vĩ đại trong hoà bình.
Vào những năm đầu cuộc chiến tranh chống Pháp, ông nổi bật lên là một
cán bộ quân sự có bản lĩnh, được phong hàm đại tướng đầu tiên của quân
đội. Từ một đội quân nhỏ có 34 người, ông đã xây dựng một đội quân lớn
mạnh, đủ sức đương đầu với đội quân hùng mạnh của nước ngoài. Về quân
sự, có lẽ khỏi phải nói đến tài năng rực rỡ của ông. Điều mà anh em
chúng tôi tiếc thương nhất nằm ở chỗ khác. Nghe nói ông là người không
đồng tình với các kế hoạch cải cách ruộng đất, chống nhân văn giai
phẩm, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở cả hai miền Nam Bắc.
Ông đề xuất với Bộ Chính trị những cách làm hoàn toàn khác nhưng không
được chấp nhận. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, lực lượng chỉ huy
quân đội hình thành từ tầng lớp trí thức, dứt bỏ cuộc sống đô thị đến
với nhân dân. Đây là tầng lớp có học nhất trong quân đội thời bấy giờ,
vừa có tinh thần chống Pháp, vừa có tinh thần độc lập tự chủ, sẵn sàng
bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Tuy nhiên, đội ngũ này còn thiếu kinh
nghiệm tác chiến. Những năm ấy, lãnh đạo Đảng Lao động nhờ Trung Quốc
giúp đỡ. Phải nói rằng khi đó Trung Quốc đã rất giầu kinh nghiệm tiến
hành chiến tranh du kích, từ chiến tranh du kích phát triển lên thành
đánh trận địa hiện đại, nhờ đó, đã giúp nhiều cho cuộc chiến của nhân
dân Việt Nam. Nhưng các lãnh đạo Trung Quốc còn nhìn xa hơn nữa. Họ thấy
được rằng nếu để lực lượng dân tộc của Việt Nam nắm quyền chỉ huy quân
đội thì bước tiến của Trung Quốc xuống Đông Nam Á không dễ thực hiện.
Trong một lần gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mao đã không úp mở: Tôi sẽ là
chủ tịch của năm trăm triệu bần nông tiến xuống vùng Đông Nam Á. Để dễ
dàng tiến xuống Đông Nam Á thì phải gạt bỏ hòn đá cản đường lớn nhất lúc
ấy là các chỉ huy quân sự trong quân đội Việt Nam có tinh thần dân tộc.
Theo chỉ đạo của Mao, các cố vấn Trung Quốc đã thúc giục phía Việt Nam
tiến hành chỉnh quân giống như "chỉnh phong" bên Trung Quốc, Kết quả là
nhiều cán bộ chỉ huy giầu kinh nghiệm của Việt Nam bị xử lý, vô hiệu
hoá. Tướng Giáp dù không đồng tình nhưng không cản được quá trình "hán
hoá" quân đội, ông đành phải nuốt bồ hòn khen ngọt.
Tướng Giáp là người có máu văn nghệ, thậm chí nghe nói ông chơi đàn
piano khá hay. Chính ông là người không đồng tình với việc "đánh" nhân
văn giai phẩm. Tuy nhiên, ý kiến lẻ loi của ông rơi tõm vào hư vô. Các
tướng đàn anh hay kể trong thời kỳ nhân văn giai phẩm ông vẫn đến thăm
hỏi những nhà văn đang bị "đánh" để an ủi họ. Có điều ông hoàn toàn
không cứu được họ, tức là ông vẫn là kẻ thất bại.
Năm 1968, ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ lập kế hoạch "tổng tiến công". Kế
hoạch này được đại tướng Nguyễn Chí Thanh khởi thảo xây dựng, sau đó
nghe nói do Văn Tiến Dũng hoàn thiện. Tướng Giáp lúc ấy là Tông tư lệnh
mà không được biết. Chỉ một ngày trước khi nổ súng người ta mới báo cáo
ông, nghe báo cáo mà lòng ông nặng trĩu. Do kế hoạch khá phiêu lưu, trận
đánh ở thành cổ đã làm chết rất nhiều chiến sĩ trẻ miền Bắc. Công việc
của Tổng tư lệnh thành ra là "chữa cháy", cố gắng làm sao để quân ta rút
lui an toàn, ít tổn thất. Và ngay cả cái nhiệm vụ sau cùng này ông cũng
là người thất bại.
Năm 1975, trước thời cơ đánh lớn giải phóng miền Nam, ngoài việc phải
lập kế hoạch quân sự để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước còn
phải nghĩ đến việc xây dựng chính quyền tiếp quản miền Nam. Nhóm ý kiến
"cách mạng triệt để" mà người đứng đầu là ông Lê Duẩn cho rằng cần phải
xoá bỏ hoàn toàn chính quyền Sài Gòn, giải thể chính quyền Cách mạng lâm
thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, sáp nhập vào với chính quyền Việt Nam
dân chủ cộng hoà, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tướng Giáp đưa ra
ý kiến cần phải xây dựng chính quyền "chuyển tiếp", nội dung như sau:
Không tiến công vào Sài Gòn mà lập chính quyền ba bên ở Sài Gòn, do
tướng Dương Văn Minh đứng đầu. Chính quyền "chuyển tiếp" này chỉ tồn tại
ở Sài Gòn, còn lại ta sẽ nắm toàn bộ vùng nông thôn và chính quyền cấp
cơ sở. Cách làm đó có 3 điều lợi: một là, giữ nguyên được cơ sở công
nghiệp ở miền Nam với các mối quan hệ làm ăn với nước ngoài; hai là, Mỹ
không bị "mất mặt" khi rút quân khỏi miền Nam; ba là, để xây dựng lại
đất nước, chính quyền "chuyển tiếp" ở Sài Gòn có thể "danh chính ngôn
thuận" kêu gọi viện trợ Mỹ, trong khi chính quyền Việt Nam dân chủ cộng
hoà vẫn giữ được viện trợ từ các nước XHCN. Về chính trị, Việt Nam có
thể tạo ra khung cảnh "thi đua hoà bình" xây dựng Tổ quốc từ hai chính
quyền, điều này cực kỳ có lợi khi thu hút viện trợ từ hai khối. Nhưng ý
kiến này của tướng Giáp bị bác bỏ và đó là thất bại lớn nhất của ông khi
góp ý về chiến lược xây dựng Tổ quốc. Ngay trong vụ chiến tranh
Căm-pu-chia đại tướng cũng có ý kiến khác. Ông đề nghị dùng đặc công vào
Phnôm-pênh đưa ông Xi-ha-nuc ra vùng giải phóng, lập chính quyền danh
nghĩa do ông Xi-ha-núc đứng đầu tiến vào giải phóng Căm-pu-chia. Từ đấy
lập chính quyền mới ở Căm-pu-chia do ông Xi-ha-núc đứng đầu ở thủ đô,
còn Việt Nam thông qua Đảng Nhân dân cách mạng Căm-pu-chia nắm lấy chính
quyền cấp cơ sở. Nội dung cơ bản cũng giống như đề nghị cách làm ở Việt
Nam. Nếu các ý kiến này của tướng Giáp được chấp nhận có lẽ Việt Nam đã
có hình ảnh hoàn toàn khác sau chiến tranh, tình hình kinh tế cũng rất
khác.
Đau đớn thay, chiến lược phát triển cho đất nước sau chiến tranh của
ông bị bác bỏ, tức là ông hoàn toàn thất bại. Và qua ông, nhân dân Việt
Nam đã thất bại hoàn toàn.