Mohan Malik
Người dịch: Châu Anh Hiệu đính: Kim Minh
Bằng
trí tưởng tượng và chủ nghĩa xét lại về lịch sử, Bắc Kinh đặt cược rất
cao vào "quân bài lịch sử" để bảo vệ những yêu sách của mình tại Biển
Đông.
Quần
đảo Trường Sa - trước đây không lâu vốn chỉ được biết đến là một ngư
trường đánh cá lớn - nay lại trở thành một điểm nóng quốc tế khi mà giới
lãnh đạo Trung Quốc kiên trì đưa ra những phát ngôn ngày càng khiêu
khích rằng các đảo, đá, và mỏm đá là “lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc từ
thời cổ đại” theo của lời Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Thông thường, những
tuyên bố chủ quyền chồng lấn đối với biên giới đất liền và trên biển
phải được giải quyết trên cơ sở kết hợp tập quán pháp, xét xử trước Tòa
án Công lý Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc bằng hình thức
trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển.
Mặc dù Trung Quốc đã phê chuẩn Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển
(UNCLOS), nhưng công ước này nhìn chung phản đối các yêu sách "dựa trên
lịch sử", vốn là lập trường luôn được Bắc Kinh nhắc đi nhắc lại. Vào
ngày 4 tháng 9 năm 2012, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Dương Khiết
Trì, nói với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng có "rất nhiều bằng
chứng lịch sử và pháp lý chứng minh Trung Quốc có chủ quyền đối với các
đảo trên Biển Đông và các vùng nước liền kề".
Liên
quan đến "chứng cứ pháp lý", rất nhiều chuyên gia luật quốc tế kết luận
rằng yêu sách "danh nghĩa lịch sử" của Trung Quốc đối với Biển Đông,
hàm ý bao gồm đầy đủ chủ quyền và quyền chủ quyền cho phép các nước khác
được quá cảnh, là không có cơ sở. Bằng chứng lịch sử, nếu có, thì càng
ít sức thuyết phục hơn. Có rất nhiều mâu thuẫn trong cách Trung Quốc sử
dụng chứng cứ lịch sử để biện hộ cho những yêu sách đối với các đảo và
bãi đá ngầm trên Biển Đông, một trong số đó là cách so sánh gây tranh
cãi giữa việc Trung Quốc làm với quá trình bành trướng đế quốc của Mỹ và
các cường quốc châu Âu vào thế kỷ 18 và 19. Để biện hộ cho những nỗ lực
mở rộng biên giới trên biển của Trung Quốc thông qua yêu sách đối với
các đảo và bãi đá ngầm rất xa so với bờ biển, Giáo sư Jia Qingguo thuộc
Khoa Nghiên cứu Quốc tế, Đại Học Bắc Kinh cho rằng Trung Quốc chỉ đơn
thuần làm theo những gì phương Tây đã làm mà thôi. Trả lời phỏng vấn AFP
gần đây, ông Jia nói rằng : "Mỹ có đảo Guam ở châu Á, nằm cách rất xa
nước Mỹ và Pháp cũng có các đảo ở phía Nam Thái Bình Dương, vì thế việc
này không có gì là mới".
Yêu
sách dựa trên lịch sử của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa đang
gặp trở ngại bởi vì trên thực tế các đế chế thống trị ở khu vực trong
quá khứ không hề thực thi chủ quyền (sovereignty). Đối với châu Á thời
cận đại, đặc thù của các đế chế là có đường biên giới không xác định,
không được bảo vệ và thường xuyên thay đổi. Khái niệm quyền bá chủ là
phổ biến hơn. Không giống như một quốc gia-dân tộc, đường biên giới của
các đế chế Trung Hoa không được vẽ rõ ràng cũng như không được kiểm soát
chặt chẽ mà thường là những đường tròn và những vùng hẹp dần tính từ
trung tâm nền văn minh tới vùng ngoại vi không xác định của các tộc
người khác. Quan trọng hơn, trong những tranh chấp lãnh thổ với các nước
láng giềng Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam, Bắc Kinh luôn giữ quan điểm rằng
đường biên giới trên bộ của mình chưa bao giờ được xác định, phân giới
và cắm mốc. Nhưng hiện nay, khi vấn đề xảy ra đối với các đảo, bãi cạn
và mỏm đá trên Biển Đông thì Bắc Kinh lại tuyên bố theo cách khác. Nói
cách khác, khẳng định của Trung Quốc rằng đường biên giới trên bộ của
nước này chưa bao giờ được xác định và phân giới hoàn toàn trái ngược
với quan điểm rằng biên giới trên biển của Trung Quốc luôn luôn được xác
định và phân định ranh giới một cách rõ ràng. Ở đây đã thấy tồn tại một
mâu thuẫn cơ bản trong lập trường của Trung Quốc về đường biên giới
trên bộ và trên biển và quan điểm không thể bảo vệ được. Nói đúng hơn,
chính những nỗ lực của Trung Quốc vào giữa thế kỷ 20 muốn biến những
đường biên giới không xác định của các nền văn minh và đế chế cổ đại
được hưởng quyền bá chủ thành những biên giới được phân định rõ ràng của
các quốc gia-dân tộc hiện đại để hưởng chủ quyền là nguyên nhân chính
dẫn đến tranh chấp lãnh thổ/ biển giữa Trung Quốc và các nước láng
giềng. Tóm lại, chủ quyền là một khái niệm chỉ được gắn cho các quốc
gia-dân tộc, không phải các đế chế cổ đại.
Biên
giới hiện tại của Trung Quốc chủ yếu phản ánh đường biên giới được
thiết lập trong thời kỳ bành trướng lãnh thổ hoàng kim của Triều đại nhà
Thanh (Mãn Châu) vào thế kỷ 18, dần dần theo thời gian được củng cố
thành biên giới quốc gia cố định theo khuôn khổ của hệ thống quốc
gia-dân tộc Westphalia áp dụng đối với châu Á trong thế kỷ 19 và 20. Tuy
nhiên, lịch sử chính thống Trung Quốc ngày nay thường bóp méo giai đoạn
lịch sử phức tạp này bằng tuyên bố rằng người Mông Cổ, Tây Tạng, Mãn
Châu và Hán đều là người Trung Quốc, trong khi trên thực tế Vạn Lý
Trường Thành được các triều đại Trung Quốc xây dựng nhằm bảo vệ đất nước
Trung Hoa của người Hán trước sự xâm lăng của các tộc người Mông Cổ và
Mãn Châu ở phía Bắc; bức tường thành trên thực tế thể hiện đường vành
đai an ninh của các đế chế Trung Hoa của người Hán. Trong khi hầu hết
các nhà sử học đều xem sự càn quét của các đạo quân xâm lược Mông Cổ do
Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo đầu những năm 1200 như một thảm kịch đe dọa sự
sống còn của các nền văn minh cổ đại ở Ấn Độ, Ba Tư và các quốc gia
khác (Trung Quốc cũng là một trong số đó) thì người Trung Quốc đã có
toan tính khi loan truyền giả thuyết cho rằng Thành Cát Tư Hãn thực chất
là “người Trung Quốc”, và vì thế tất cả những vùng đất mà người Mông Cổ
(Triều Nguyên) đã từng chiếm đóng và chinh phục (như Tây Tạng và phần
lớn Trung và Nội Á) đều thuộc về Trung Quốc. Các yêu sách của Trung Quốc
đối với Đài Loan và Biển Đông cũng đều dựa trên lập luận rằng cả hai
khu vực này đều từng thuộc đế quốc Mãn Châu. (Thực tế, các bản đồ của
Triều đại Mãn Châu và Triều Nguyên đều mô tả đảo Hải Nam là biên giới
cực Nam của Trung Quốc, chứ không phải Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.)
Theo cách lý giải lịch sử này, bất cứ vùng lãnh thổ nào từng bị “người
Trung Quốc” chinh phục trong quá khứ sẽ luôn là của Trung Quốc cho dù nó
bị chinh phạt vào thời gian nào đi chăng nữa.
Việc
viết và sửa lại lịch sử theo quan điểm dân tộc chủ nghĩa để thúc đẩy
đoàn kết dân tộc và tính hợp pháp của chế độ được các các nhà lãnh đạo
Trung Quốc, bao gồm cả những nhà cộng sản và dân tộc chủ nghĩa, coi là
ưu tiên cao nhất. Dàn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc tự cho mình
là người kế thừa di sản của đế chế Trung Hoa, nên thường sử dụng những
biểu trưng và lối ăn nói của một đế chế. Từ những cuốn sách giáo khoa
của học sinh tiểu học cho đến các bộ phim truyền hình dã sử, hệ thống
thông tin do nhà nước kiểm soát đã nhồi nhét vào đầu các thế hệ người
Trung Quốc về sự oai phong và hùng vĩ của đế chế Trung Hoa. Như một nhà
Hán học người Úc Geremie Barmé đã chỉ ra, “Trong hàng thập kỷ giáo dục
và tuyên truyền của Trung Quốc đã đề cao vai trò của lịch sử trong sự
phát triển của nhà nước-dân tộc Trung Quốc… Trong khi chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Mao chỉ còn là cái tên thì vai trò của lịch sử
trong tương lai của Trung Quốc là bất biến”. Cứ như vậy, đã có không
biết bao nhiêu lịch sử đã được các cơ quan nghiên cứu, truyền thông và
giáo dục thêu dệt để trở thành công cụ lãnh đạo chính trị của nhà nước
(hay còn được gọi "cuộc xâm lược trên bản đồ").
Trung
Quốc sử dụng các câu chuyện dân gian, truyền thuyết, thần thoại cũng
như lịch sử để cổ súy cho các yêu sách lãnh thổ và biển của mình. Các
sách giáo khoa của Trung Quốc thuyết giảng về Vương quốc Trung tâm
(Middle Kingdom) với tư cách là nền văn minh cổ nhất và tiến bộ nhất và
là trung tâm của vũ trụ, bao quanh bởi các nước nhỏ bé hơn và phụ thuộc ở
Đông và Đông Nam Á luôn phải cúi đầu và thần phục Trung Quốc. Cách lý
giải lịch sử của Trung Quốc thường cố tình làm lu mờ sự khác biệt giữa
ảnh hưởng bá quyền, mối quan hệ chư hầu-thiên triều với sự kiểm soát
trên thực tế. Đi theo quan điểm ai làm chủ quá khứ sẽ kiểm soát hiện tại
vẽ ra cả tương lai, Bắc Kinh luôn đặt cược rất cao vào “quân bài lịch
sử” (thường là cách lý giải theo kiểu xét lại về lịch sử) trong các nỗ
lực ngoại giao nhằm đạt được mục tiêu chính sách đối ngoại, đặc biệt là
bắt các nước khác nhân nhượng về lãnh thổ và ngoại giao. Hầu hết các
nước láng giềng đều đã một lần hoặc hơn phải chịu sự tấn công quân sự
của Trung Quốc - Mông Cổ, Tây Tạng, Mi-an-ma, Triều Tiên, Nga, Ấn Độ,
Việt Nam, Phi-lip-pin và Đài Loan - và do đó là đối tượng của lịch sử
xét lại của Trung Quốc. Như Martin Jacques nhắc đến trong cuốn When China Rules the World (Khi Trung Quốc thống trị thế giới). Chủ nghĩa Trung Quốc thiên triều (Sinocentrism) góp phần hình thành và là nền móng cho chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc hiện đại”.
Nếu
khái niệm về chủ quyền quốc gia xuất hiện châu Âu vào thế kỷ 17 và hệ
thống đó bắt nguồn từ Hiệp ước Westphalia, thì chủ quyền trên biển là
khái niệm do người Mỹ đặt ra vào giữa thế kỷ 20 và Trung Quốc đã cố tận
dụng để mở rộng đường biên giới trên biển. Jacques chỉ ra, “Ý tưởng về
chủ quyền trên biển là một phát minh tương đối mới, bắt đầu từ năm 1945
khi Mỹ tuyên bố ý định thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của
mình”. Trên thực tế, Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc là nỗ lực đáng
chú ý nhất của quốc tế trong việc áp dụng khái niệm chủ quyền của đất
liền đối với các vùng biển trên toàn thế giới, tuy vậy điểm khá quan
trọng là nó bác bỏ ý tưởng các lập luận chứng minh bằng quyền lịch sử.
Vì vậy, dù Bắc Kinh yêu sách khoảng 80% Biển Đông như "vùng nước lịch
sử" của nước này (và hiện đang hướng tới việc nâng yêu sách lên nhóm
"lợi ích cốt lõi" giống như yêu sách đối với Đài Loan và Tây Tạng), nói
về mặt lịch sử, Trung Quốc có quyền yêu sách Biển Đông như Mexico yêu
sách Vịnh Mexico cho riêng mình, hay Iran đối với Vịnh Ba Tư, Ấn Độ đối
với Ấn Độ Dương.
Các
đế chế cổ đại giành quyền kiểm soát lãnh thổ thông qua hoạt động xâm
chiếm, sáp nhập, đồng hóa hay để mất lãnh thổ vào tay các đối thủ khác,
những đế chế có binh lực hoặc khả năng thống trị tốt hơn. Việc mở rộng
và thu hẹp lãnh thổ là một khái niệm được quyết định bởi sự hưng thịnh
hay suy yếu của một vương quốc hay đế chế. Vì vậy, quan niệm "vùng đất
thiêng liêng" là phi lịch sử bởi việc kiểm soát lãnh thổ dựa trên việc
một nước chiếm đoạt hoặc đánh cắp những gì thuộc về nước khác. Biên giới
của những triều đại Tần, Hán, Đường, Tống và Minh mở rộng và thu hẹp
trong suốt quá trình lịch sử. Một đế quốc Trung Hoa thịnh vượng và hùng
cường, cũng giống như nước Nga sa hoàng, bành trướng lãnh thổ ở vùng Nội
Á và Đông Dương khi cơ hội xuất hiện và sức mạnh cho phép. Việc mở mang
bờ cõi dần dần qua nhiều thế kỷ dưới triều đại Mông Cổ và Mãn Châu đã
tăng thêm quyền kiểm soát của đế chế Trung Hoa đối với Tây Tạng và một
số vùng ở Trung Á (nay là Tân Cương), Đài Loan và Đông Nam Á. Trên thực
tế, Trung Quốc cận đại chính là một “nhà nước đế chế" dưới mác một quốc
gia-dân tộc.
Nếu
các yêu sách của Trung Quốc được chứng minh trên cơ sở lịch sử, thìyêu
sáchlịch sử của Việt Nam và Philippines cũng có thể dựa vào yếu tố lịch
sử của họ. Ví dụ, các sinh viên ngành lịch sử Châu Á biết rằng dân tộc
Mã Lai, có gốc gác với người Philippines ngày nay, có thể đưa ra yêu
sách đối vớiĐài Loan thuyết phục hơn của Bắc Kinh. Những người gốc Mã
Lai Pô-li-nê-di đã định cư đầu tiên ở Đài Loan, họ là tổ tiên của nhóm
thổ dân ngày nay - những người cư ngụ ở vùng đồng bằng thấp ven biển.
Trong bài viết năm ngoái trên tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng,
nhà bình luận châu Á nổi tiếng, ông Philip Bowring đã nhận xét rằng,
"Việc Trung Quốc có những ghi chép lịch sử lâu đời không làm vô hiệu giá
trị lịch sử của các quốc gia khác thể hiện qua cổ vật, ngôn ngữ, nòi
giống và quan hệ di truyền,các bằng chứng về giao thương và đi lại.” Trừ
khi ai đó tán thành khái niệm quan điểm chủ nghĩa cá biệt dành riêng
cho Trung Quốc, nếu không “yêu sách lịch sử" của đế quốc Trung Hoa có
giá trị như yêu sách lịch sử của những vương triều và đế chế khác ở Đông
Nam Á và Nam Á. Việc Trung Quốc yêu sách các khu vực thuộc địa của đế
chế Mông Cổ và Mãn Châu giống với việc Ấn Độ yêu sáchAfghanistan,
Bangladesh, Miến Điện, Malaysia (Srivijaya), Nepal, Pakistan và Sri
Lanka với lập luận đây là các phần thuộc triều đại Maurya, Chola, hoặc
đế chế Mông Cổ và đế chế Ấn Độ thuộc Anh.
Các
yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông cũng đánh dấu một sự thay đổi lớn
về định hướng địa chính trị lâu đời của một cường quốc lục địa. Với việc
tuyên bố có bề dày truyền thống đi biển, Trung Quốc đề cập nhiều đến
cuộc thám hiểm đầu thế kỷ XV của Trịnh Hòa tới Ấn Độ Dương và Châu Phi.
Nhưng, như Bowring chỉ ra rằng "Nếu nói đến hoạt động hàng hải ngoài các
vùng nước ven bờ, Trung Quốc thực sự chỉ là người đến sau. Trong nhiều
thế kỷ, những người bá chủ của đại dương là người Mã Lai Pô-li-nê-di,
những người đã chinh phục phần lớn thế giới, từ Đài Loan đến New
Zealand, Hawaii ở phía nam và phía đông, và Madagascar ở phía tây. Các
chum đồng đã được trao đổi ở Palawan, phía nam Scarborough vào thời
Khổng Tử. Những người hành hương Phật giáo của Trung Quốc như Pháp Hiển
đến Sri Lanka và Ấn Độ vào thế kỷ thứ năm đã đi bằng thuyền do người Mã
Lai sở hữu và điềukhiển. Tàu thuyền đi từ khu vực mà ngày nay là
Philippines đã có hoạt động giao thương ở Phù Nam, một nhà nước cổ hiện
nay thuộc miền Nam Việt Nam, một ngàn năm trước thời nhà Nguyên."
Và
cuối cùng, cái gọi là "yêu sách lịch sử" của Trung Quốc đối với Biển
Đông không thực sự “tồn tại từ nhiều thế kỷ trước." Những yêu sách này
chỉ có từ năm 1947, khi chính phủ theo chủ nghĩa dân tộc củaTưởng Giới
Thạch vẽ cái gọi là "đường mười một đoạn" trên bản đồ của Trung Quốc ở
Biển Đông, bao gồm quần đảo Trường Sa và các chuỗi đảo khác mà chính phủ
Quốc Dân Đảng cầm quyền tuyên bố thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Bản
thân ông Tưởng nói rằng ông ta xem chủ nghĩa phát xít Đức như một hình
mẫu cho Trung Quốc, bị cuốn hút bởi ý tưởng của Đảng quốc xã về Không gian Sinh tồn được
mở rộng ("không gian sống") cho dân tộc Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch
không có cơ hội trở thành người theo chủ nghĩa bành trướng bởi người
Nhật đã đẩy ông lui về thế phòng thủ, nhưng những người vẽ bản đồ của
chế độ dân tộc chủ nghĩa khi đó đã vẽ ra đường chữ U gồm mười một đoạn
vớinỗ lực mở rộng "không gian sống" của Trung Quốc trên Biển Đông. Sau
chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc nội chiến năm 1949,
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã chấp nhận tấm bản đồ này, sửa lại ý
tưởng của Tưởng Giới Thạch thành "đường chín đoạn" sau khi xóa bớt hai
đoạn nằm ở Vịnh Bắc Bộ vào năm 1953.
Kể
từ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Trung Quốc đã vẽ lại bản
đồ của nước này, xác định lạiđường biên giới, tạo ra các bằng chứng lịch
sử, sử dụng vũ lực để thiết lập thực trạng mới về lãnh thổ,đổi tên các
đảo và cố gắng áp đặt lối giải thích lịch sử đối với các vùng biển trong
khu vực. Trung Quốc đã thông qua một đạo luật vào năm 1992, "Luật lãnh
hải và vùng tiếp giáp lãnh hải" trong đó yêu sáchbốn phần năm Biển Đông.
Hải quân Trung Quốc đã có những cuộc đụng độ quân sự với hải quân của
Philippines và Việt Nam trong những năm 1990. Mới đây, việc triển khai
số lượng lớn tàu cá và tàu hải giám Trung Quốc đến vùng biển tranh chấp
để tạo thành một thế trận gần như là "chiến tranh nhân dân trên biển" đã
làm gia tăng căng thẳng. Trích lời của nhà bình luận Sujit Dutta, "Chủ
trương phục hồi lãnh thổ không khoan nhượng của Trung Quốc [được] dựa
trên... học thuyết cho rằng cần chiếm giữ khu vực ngoại vi để bảo vệ khu
vực trung tâm. [Đây] về cơ bản là một khái niệm rất đế quốc được tiếp
thu bởi những người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc - cả Quốc Dân Đảng
và Đảng Cộng Sản. Nhữngnỗ lực của chế độ [hiện nay] nhằm giành được
đường biên giới địa lý tưởng tượng với rất ít cơ sở lịch sử đã, đang và
sẽ tiếp tục gây ra những hậu quả chiến lược bất ổn".
Một
lý do mà Đông Nam Á cảm thấy khó chấp nhận yêu sách lãnh thổ của Trung
Quốc đó là nước này luôn hành xử quyết đoán theo kiểu dân tộc Hán ưu
việt đối với các dân tộc và đế chế khác ở Châu Á. Như lời ông Jay
Batongbacal thuộc Trường Đại học luật Philippines: "Bằng trực giác, chấp
nhận đường chín đoạn chả khác nào việc phủ nhận chính bản sắc và lịch
sử của tổ tiên người Việt Nam, người Philippines, và người Mã Lai, nó
gần như một sự hồi sinh ở thời kỳ hiện đại của tư tưởng hạ thấp những
tộc người không phải người Trung Quốc, xem họ như những "người man rợ"
không có phẩm giá và được tôn trọng giống như một dân tộc".
Các
đế chế và vương triều chưa bao giờ thực thichủ quyền. Nếu yêu sách lịch
sử có bất kỳ giá trị nàothì Mông Cổ có thể yêu sách toàn bộ Châu Á chỉ
đơn giản bởi đế chế này đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục.
Hoàn toàn không có cơ sở lịch sử để bảo vệ yêu sách đường chín đoạn, đặc
biệt khi xét đến việc lãnh thổ của đế chế Trung Hoa chưa từng được phân
định một cách rõ ràng như các quốc gia-dân tộc, mà đúng hơn chỉ là các
khu vực chịu ảnh hưởng giảm dần tính từ vùng trung tâm văn minh của đế
chế. Đây là lập trường của Trung Quốc hiện đại bắt đầu từ những năm 1960
trong các cuộc đàm phán về biên giới trên bộ với một số quốc gia láng
giềng. Nhưng đây không phải quan điểm Trung Quốc áp dụng ngày nay trong
các tranh cãi về bản đồ, ngoại giao và những va chạm quân sự cường độ
thấp nhằm xác định ranh giới trên biển của nước này. Việc liên tục giải
thích lại lịch sử nhằm thúc đẩy các yêu sách về biển, chính trị, lãnh
thổ, kết hợp cùng khả năng điều chỉnh "làn sóng dân tộc chủ nghĩa" của
giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc trong những thời điểm căng thẳng với
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Philippines, đã khiến cho Bắc
Kinh khó khăn trong việc trấn an các nước láng giềng rằng "sự trỗi dậy
hòa bình" của nước này hoàn toàn là hòa bình. Vì có sáu bên yêu sách các
rạn san hô, đảo, đá và mỏ dầu ở Biển Đông, tranh chấp Quần đảo Trường
Sa, theo định nghĩa, là tranh chấp đa phương nên cần phân xử bằng trọng
tài quốc tế. Nhưng Trung Quốc luôn nhấn mạnh các tranh chấp này là song
phương nhằm mục đích đặt đối thủ cạnh tranh vào giữa "cái đe" chủ nghĩa
xét lại lịch sử và "cái búa" sức mạnh quân sự ngày càng tăng của nước
này.
Mohan Malik
Mohan
Malik là giáo sư về an ninh châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh
châu Á - Thái Bình Dương, ở Honolulu. Bài viết thể hiện quan điểm riêng
của tác giả. Cuốn sách xuất bản gần đây nhất của ông là cuốn China and
India : Great Power Rivals (Trung Quốc và Ấn Độ : Những cường quốc trỗi
dậy). Ông gửi lời cảm ơn đến tiến sĩ Justin Nankivell, Carlyle Thayer,
Denny Roy và David Fouse vì những góp ý cho bài viết này.
Bản gốc tiếng Anh : "Historical Fiction : China’s South China Sea Claims".
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông