Nguyễn Hưng Quốc
Nhìn lại lịch sử tranh chấp giữa hai khối tư bản và Cộng sản trong
gần suốt thế kỷ 20, nhận xét đầu tiên người ta có thể rút ra là: Không
ai có thể đánh bại được Cộng sản.
Nhận xét ấy được hỗ trợ bởi hai bằng chứng:
Thứ nhất, trên phạm vi toàn cầu, trong 70 năm đầu tiên, chủ nghĩa
Cộng sản phát triển cực nhanh, nhanh đến độ dường như không có ai và
không có cái gì có thể ngăn cản được. Ra đời tại Nga năm 1917, năm năm
sau, 1922, Liên bang Xô Viết được thành lập với vai trò nòng cốt của
Nga, châu tuần bởi các nước láng giềng nhỏ của Nga, như Ukraine,
Belarus, Georgia, Armenia và Azerbaijan. Sau đó, một số nước khác bị sáp
nhập vào Liên bang Xô Viết, như Estonia, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan,
Turkmenistan và Uzbekistan. Đến
giữa thập niên 1980, Liên bang Xô Viết, với diện tích trên 22 triệu cây
số vuông và đường biên giới trên 60.000 km, chiếm đến một phần sáu diện
tích trái đất, rộng bằng cả Bắc Mỹ. Năm 1945, sau Đệ nhị thế chiến, một
số nước thuộc Trung Âu và Đông Âu lần lượt rơi vào tay Cộng sản:
Albania, Ba Lan, Bosnia, Bulgaria, Croatia, Đông Đức, Hungary,
Macedonia, Montenegro, Romania, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tiệp Khắc,
Nam Tư. Sau đó nữa là các nước thuộc châu Á và châu Phi, như Trung Quốc,
Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Afghanistan, Campuchia, Congo, Mông Cổ,
Yemen, Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Somalia, Eritrea và Mozambique.
Vào giữa thập niên 1980, khối Cộng sản rất mạnh, chiếm một phần ba dân
số thế giới. Cho đến lúc ấy, câu khẩu hiệu chủ nghĩa Marx-Lenin hoặc chủ
nghĩa Cộng sản bách chiến bách thắng vang lên khắp nơi. Dân chúng ở các
nước Cộng sản, vốn bị nhồi sọ, tin điều đó, đã đành. Ngay phần lớn dân
chúng ở Tây phương, tuy biết tất cả những mặt trái đầy tiêu cực của chủ
nghĩa Cộng sản, vẫn không tin là Tây phương có thể đánh bại được Cộng
sản.
Thứ hai, dù cả hai bên, tư bản và Cộng sản, lúc nào cũng cố gắng tự
kiềm chế, nhưng ít nhất cũng có hai nơi cuộc chiến tranh lạnh đã biến
thành chiến tranh nóng: Ở Triều Tiên trong ba năm, 1950-1953, và ở Việt
Nam, từ 1954 đến 1975. Ở trận chiến đầu, hai bên hòa nhau, Triều Tiên bị
chia đôi, Nam và Bắc. Điểm phân cách vẫn là vĩ tuyến 38, đúng với quyết
định của phe Đồng Minh trong hội nghị Potsdam vào tháng 8 năm 1945. Ở
trận chiến sau, Mỹ tự nhận là thua sau khi rút khỏi Việt Nam vào tháng 4
năm 1975. (Về điểm này, tôi có phân tích khá kỹ trong bài “1975: Việt Nam có thắng Mỹ?”. Ở đây, tôi tạm thời chấp nhận cách nhìn quen thuộc và phổ biến để khỏi bị gián đoạn mạch lý luận trong bài viết này.)
Có điều, từ nhận xét nêu ở đầu bài viết, không ai có thể đánh bại
được Cộng sản, người ta lại chứng kiến một sự kiện oái oăm vào thời điểm
bản lề giữa hai thập niên 1980 và 1990: chủ nghĩa Cộng sản đã bị sụp đổ
trên phạm vi toàn cầu. Cái gọi là “sụp đổ” ấy có hai mức độ: sụp đổ
hoàn toàn và sụp đổ một phần, hơn nữa, phần lớn. Nhưng dù sụp đổ hoàn
toàn hay sụp đổ một phần thì cũng vẫn là sụp đổ. Một sự sụp đổ lớn lao,
nhanh chóng, và đặc biệt, hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của mọi người ở
mọi phía.
Sự sụp đổ hoàn toàn diễn ra ở Nga, Đông Âu, Trung Âu, Trung Đông, Trung Mỹ và châu Phi.
Trước hết, ở châu Âu, chỉ trong vòng chưa tới ba năm, toàn bộ các
đảng Cộng sản đang nắm quyền sinh sát gần như tuyệt đối ở Đông Âu và
Trung Âu đều mất sạch quyền hành; chế độ độc đảng trở thành đa đảng; bầu
cử tự do được tổ chức khắp nơi, các thành phần đối lập hoặc lên cầm
quyền hoặc được chia quyền (ở Ba Lan, ngày 4/6/1989; Turkmenistan
7/1/1990; Uzbekistan 18/2/1990; Lithuania 24/2/1990; Moldova 25/2/1990;
Kyrgyzstan 25/2/1990; Belarus 3/3/1990; Nga 4/3/1990; Ukraine 4/3/1990;
Đông Đức 18/3/1990; Estonia 18/3/1990; Latvia 18/3/1990; Hungary
25/3/1990; Kazakhstan 25/3/1990; Slovenia 8/4/1990; Croatia 24/4/1990;
Romania 20/5/1990; Armenia 20/5/1990; Tiệp Khắc 8/6/1990; Bulgaria
10/6/1990; Azerbaijan 30/9/1990; Georgia 28/10/1990; Macedonia
11/11/1990; Bosnia & Herzegovina 18/11/1990; Serbia 8/12/1990;
Montenegro 9/12/1990; và Albania 7/4/1991). Liên bang Xô Viết tan rã.
Hầu hết các quốc gia trước đây bị sáp nhập vào Liên bang đều tuyên bố
độc lập hoặc tự trị. Ngay cả ở Nga, đảng Cộng sản không những bị mất
quyền mà còn bị khinh bỉ và tẩy chay, không còn đóng vai trò gì trên bàn
cờ chính trị quốc nội.
Xin lưu ý; sự sụp đổ của chế độ Cộng sản ở các nước trên đều diễn ra
rất gọn gàng, không gây xáo trộn và đặc biệt, không đổ máu, trừ Romania,
nơi Ceaușescu bị lật đổ và giết chết, kéo theo cái chết của khoảng
1.100 người khác.
Sự sụp đổ ấy nhanh chóng lan sang các vùng khác, đặc biệt các vùng
Trung Mỹ, Trung Đông và châu Phi. Năm 1990, ở Nicaragua, sau một cuộc
bầu cử tự do, đảng Cộng sản mất quyền; ở Angola, cuộc chiến giữa Cộng
sản và phe chống Cộng chấm dứt; năm 1991, ở Ethiopia, Trung tá Mengistu
Meriam, nhà độc tài Cộng sản từng thống trị đất nước suốt gần 15 năm,
chạy trốn khỏi đất nước, và Eritrea tuyên bố tách khỏi Ethopia, trở
thành độc lập và từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản. Ở Trung Đông, năm 1990, chế
độ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Yemen bị sụp đổ, sau đó, hợp nhất với Nam
Yemen, thành lập nước Cộng hòa Yemen; ở Afghanistan, chế độ Cộng sản của
Najibullah sụp đổ vào mùa xuân 1992.
Sự sụp đổ một phần diễn ra ở Trung Quốc, Lào, Cuba và Việt Nam.
Chế độ Cộng sản, như nó từng tồn tại từ năm 1917 đến cuối thập niên
1980, dựa trên ba nền tảng chính: Về ý thức hệ, dựa trên chủ nghĩa
Marx-Lenin; về kinh tế, dựa trên chính sách quốc hữu hóa và nguyên tắc
kế hoạch hóa tập trung; và về bộ máy quyền lực, dựa trên sức mạnh độc
tôn của đảng, công an và quân đội. Ở cả bốn quốc gia kể trên, từ đầu
thập niên 1990, nền tảng ý thức hệ coi như đã bị phá sản; nền tảng kinh
tế cũng bị biến chất theo chiều hướng tư bản hóa. Trên cái thế kiềng ba
chân của chế độ, hai chân đã bị sụp. Chỉ còn một chân là bộ máy quyền
lực. Gọi chế độ Cộng sản ở bốn quốc gia này bị sụp đổ một phần, thậm
chí, phần lớn, là vậy.
Trên thế giới hiện nay, chỉ có một quốc gia duy nhất còn giữ được chế
độ Cộng sản chính thống và “truyền thống” trước năm 1990, đó là Bắc
Triều Tiên. Tuy nhiên, không ai xem đó là điều đáng tự hào. Ngược lại.
Nó chỉ bị xem là một thứ quái thai.
Như vậy, chúng ta chứng kiến một nghịch lý: một mặt, có cảm tưởng như
không ai có thể đánh bại được Cộng sản; mặt khác, chỉ trong vòng mấy
năm thật ngắn ngủi, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều thi nhau ngã
gục. Vậy thì ai đánh bại nó?
Có nhiều câu trả lời đã được đưa ra. Nhưng câu trả lời được nhiều học
giả đồng tình nhất là: Không có ai đánh bại Cộng sản cả. Chỉ có Cộng
sản mới đánh bại được Cộng sản.
Cộng sản đánh bại Cộng sản bằng cách nào?
Bằng nhiều cách. Thứ nhất, bằng các sai lầm có tính hệ thống trong
kinh tế khiến nước Cộng sản nào cũng nghèo đói xơ xác. Giữa thập niên
1980, phần lớn các cửa hàng quốc doanh, kể cả cửa hàng thực phẩm, ở phần
lớn các nước Cộng sản, bao gồm cả Liên Xô, đều trống không. Nợ nước
ngoài chồng chất. Riêng Ba Lan, nơi chế độ Cộng sản sụp đổ đầu tiên, nợ
các nước Tây phương đến trên 100 tỉ đô la và đối diện với nguy cơ không
thể trả được. Thứ hai, tình hình kinh tế tồi tệ ấy càng tồi tệ thêm nữa
do nạn tham nhũng tràn ngập ở mọi cấp. Thứ ba, những thất bại về kinh
tế, sự hoành hành của tham nhũng và những chính sách độc tài tàn bạo của
chính quyền làm dân chúng bất mãn và nổi dậy tranh đấu đòi thay đổi
chính sách, đặc biệt, dân chủ hóa. Cuối cùng, đối diện với tất cả các
vấn đề ấy, hầu như mọi người, kể cả các cán bộ cao cấp nhất, đều mất hẳn
niềm tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Họ biết chắc chắn một điều: họ không
thể tiếp tục tồn tại được nếu họ không tự thay đổi. Chính sách glasnost
và perestroika của Mikhail Gorbachev ra đời là để đáp ứng lại nhu cầu
đó. Nhưng ngay cả khi đưa ra chính sách cải tổ và tái cấu trúc như vậy,
giới lãnh đạo vẫn không an tâm hẳn. Họ biết đó chỉ là những biện pháp vá
víu. Tự thâm tâm, tất cả đều mất niềm tin vào chế độ.
Chính vì mất niềm tin như vậy nên ở những thời điểm quan trọng nhất,
mọi người đều đâm ra hoang mang, không ai dám quyết định điều gì. Ngày 9
tháng 11 năm 1989, khi dân chúng đổ xuống đường biểu tình trước bức
tường Bá Linh, bộ đội và công an, dù đông hơn hẳn, không biết đối phó
thế nào. Họ gọi điện thoại lên cấp trên. Các cấp trên của họ sợ trách
nhiệm, cứ đùn qua đẩy lại với nhau: Cuối cùng bức tường bị đổ. Ở Nga
cũng vậy, trước các cuộc xuống đường của dân chúng, không ai dám ra lệnh
quân đội hay công an nã súng vào dân chúng: cuối cùng, chế độ sụp.
Không phải cán bộ, công an hay giới lãnh đạo bỗng dưng nhân đạo hơn.
Không. Ở đây không phải là sự thay đổi trong tính khí. Mà ở nhận thức.
Tất cả đều nhận thức được sâu sắc mấy điểm chính: Một, ngày tàn của chế
độ Cộng sản đã điểm; nó không thể tồn tại thêm được nữa. Hai, nó cũng
không thể cứu được. Mọi nỗ lực cứu vớt đều tuyệt vọng và chỉ gây tai họa
không những cho đất nước mà còn cả cho chính bản thân họ. Cuối cùng,
như là hệ quả của hai điều ấy, chọn lựa tốt nhất mà họ nên làm là buông
tay bỏ cuộc.
Cả ba nhận thức ấy đều không thể có nếu không có hai điều kiện: Thứ
nhất, người ta có dịp so sánh với sự giàu có, tự do và dân chủ ở Tây
phương và thứ hai, các nỗ lực tranh đấu không ngưng nghỉ của dân chúng,
đặc biệt giới trí thức, trong việc vạch trần các sai lầm và tội ác của
chế độ. Cả hai điều kiện đều quan trọng, nhưng điều kiện thứ nhất chỉ có
thể phát huy được tác dụng là nhờ điều kiện thứ hai. Những sự phê phán
và tranh đấu cho dân chủ liên tục càng ngày càng làm nổi bật sự khác
biệt sâu sắc giữa tự do và toàn trị, càng làm lung lạc niềm tin ngay cả ở
những kẻ cuồng tín và mê tín nhất, cuối cùng, cô lập những kẻ lì lợm
bám víu vào bộ máy độc tài. Khi sự cô lập đến mức độ nào đó, người ta
chỉ còn hai lựa chọn: hoặc trở thành Gorbachev hoặc trở thành Ceaușescu
(hay gần hơn, Muammar Gaddafi ở Libya).