TS. Trần Vinh Dự
Ảnh minh họa
Đặc điểm nổi bật nhất về kinh tế vĩ mô của giai đoạn này là việc nền
kinh tế đang ở trong trạng thái ổn định và, trên một vài phương diện,
tốt dần lên một cách chậm chạp. Các biến số vĩ mô chính đều tương đối
ổn. Thí dụ lạm phát giữ được ở mức 1 con số (kỳ vọng năm nay chỉ ở mức
5%). Cán cân thương mại có thặng dư ở mức thấp (xuất siêu nhẹ cả hai năm
2012 và 2013, 6 tháng đầu 2014 đạt 1,51 tỷ USD). Tăng trưởng GDP ổn
định ở mức loanh quanh từ 5% đến 5,5% (5,03% năm 2012, 5,42% năm 2013,
và kỳ vọng 5,4% năm 2014). Tỷ giá có một lần phá giá nhẹ giữa năm nay
(có tác dụng tốt để tăng xuất khẩu) nhưng nhìn chung không bị áp lực gì
lớn phải phá giá tiếp;
Tuy nhiên, có vẻ sự ổn định này đang ru ngủ nhiều người và nó che
khuất những rủi ro ngầm bên dưới. Một trong những vấn đề vĩ mô đau đầu
nhất đã được giới chuyên gia nói đến khá nhiều, nhưng hầu như công luận
không mấy người để ý (và dù có để ý thì cũng không ý thức được mức độ
nghiêm trọng của nó) là câu chuyện khủng hoảng nợ công của Việt Nam có
vẻ như đang đến dần.
Theo Báo cáo Kinh tế Vĩ mô 2014
của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cuộc khủng hoảng này có vẻ đang đến vì
hai lý do: thu kém đi trong khi chi thì phình to liên tục.
Thu ngân sách của Việt Nam đang gặp nguy hiểm vì nhiều lẽ. Việt Nam
dựa quá lớn (25% năm 2013) vào các nguồn thu không thường xuyên như bán
tài sản nhà nước, giao quyền sử dụng đất, dầu thô… Các khoản này sẽ hết
dần, không sinh sôi. Trong khi đó, thu thường xuyên (thuế và phí) giảm
dần do giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp và theo các cam kết của các hiệp
định thương mại. Nhà nước tìm cách thu vét (truy thu thuế) tuy nhiên
trong khi doanh nghiệp tư nhân còn chưa gượng lên được bao nhiêu sau
khủng hoảng nên việc thu vét cũng dễ đẩy doanh nghiệp tư nhân vào chỗ
kiệt quệ.
Chi ngân sách của Việt Nam thì đang ngày càng phình to vì nhiều lý
do. Nghĩa vụ trả nợ vay quốc tế (cả gốc lẫn lãi) đang tăng dần với ngày
càng nhiều khoản vay đáo hạn. Chi thường xuyên (thí dụ trả lương công
chức và ngân sách hoạt động của bộ máy hành chính) chiếm tỷ trọng lớn và
vẫn đang phình to, hiện đã vượt thu thường xuyên (thí dụ thuế và phí).
Cơ cấu chi bất hợp lý vì về mặt tỷ trọng chi đầu tư thì giảm (chỉ còn
21,4% trong tổng chi) mà chi thường xuyên lại tăng, thể hiện nỗ lực
“thắt lưng buộc bụng” của chính phủ về cơ bản không thành công. Đó là
chưa kể với vấn đề Trung Quốc hiện nay, chi quốc phòng và an ninh sẽ
buộc phải tăng lên, dễ rơi vào bẫy chạy đua vũ trang, chèn ép và lấy mất
vốn của các lĩnh vực tạo giá trị thặng dư khác.
Vì cơ cấu thu chi như vậy dẫn đến chỗ thâm hụt ngân sách đang tăng
dần. Từ 4,8% năm 2012 đã tăng lên 5,3% năm 2013. Tổng mức nợ công là
53,5%, vẫn thấp hơn ngưỡng an toàn 65%, nhưng đã tăng 26,89% so với năm
2012, là một tốc độ tăng quá lớn.
Có hai vấn đề lớn nhất trong chuyện này. Thứ nhất là cơ cấu chi ngân
sách dùng để trả nợ vay đang sắp vượt ngưỡng cho phép (25% trong tổng
chi ngân sách – ngưỡng an toàn do Ngân hàng Thế giới khuyến nghị và thủ
tướng phê chuẩn). Sẽ rất tệ nếu một phần quá lớn của ngân sách được dùng
để trả nợ cũ vì số tiền này không dùng để tái tạo giá trị cho tương
lai. Thêm nữa, với nguồn thu yếu, Việt Nam đang phải đi vay thêm để trả
nợ cũ (đảo nợ), biến cuộc chơi ngân sách thành một trò ponzi nguy hiểm;
Thứ hai, vì nền kinh tế không có dấu hiệu hồi phục đáng kể trong
trung hạn, có khả năng rất cao là bức tranh ngân sách sẽ còn tiếp tục
xấu đi do các khoản thu thường xuyên không tăng, các khoản thu không
thường xuyên có thể giảm, trong khi chi ngân sách thì liên tục dưới áp
lực phải phình to (để trả nợ, và thậm chí đơn giản như chi thường xuyên
cũng không kiểm soát được và vì thế tiếp tục phình). Câu chuyện vượt
ngưỡng 65% GDP có thể sẽ đến rất sớm nếu Việt Nam không kiểm soát mạnh
được chi thường xuyên.