Nguyễn Trung
Ảnh minh họa. Nguồn: Dân Luận.
Lời nói đầu
“Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”
Đấy là khẩu hiệu quyết định nhất làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945.
Người viết bài này mong khái nhiệm “chúng ta” ở đây được hiểu với nghĩa như vậy.
Đất nước 40 năm độc lập thống nhất rồi, tôi thấy rất đau lòng hôm
nay vẫn phải mở đầu bài viết của mình với đôi lời định nghĩa như vậy về
khái niệm “chúng ta”. Đơn giản vì đã 69 năm trôi qua, thế
nhưng hôm nay vẫn còn không ít những rạn nứt chia rẽ cộng đồng dân tộc
Việt Nam ta, đang làm mờ đi hay làm thiếu vắng khái niệm “chúng ta” khi bàn đến đại sự của đất nước.
Sự thể là qua các bài viết của mình, tôi vấp phải không ít phản ứng
gay gắt từ phía người đọc: “Chúng ta” là ai trong toàn thể cộng đồng dân
tộc đất nước này? Là người cai trị hay người bị cai trị? Là người nắm
quyền hay là dân đen? Là ông chủ hay người đi làm thuê? Là đảng viên
(ĐCSVN) hay không phải đảng viên? Là người chiến thắng hay kẻ lưu vong?
Là bên thắng cuộc (Huy Đức) hay kẻ phải đi cải tạo?.. Câu chuyện còn đau lòng hơn nữa khi có người đọc nổi đoá với tôi: Khái niệm đảng ta
là đảng của ai? Đấy là đảng của các ông chứ đâu phải là đảng của chúng
tôi! Đến nông nỗi này mà ông vẫn còn "ngu trung" đặt vấn đề đảng viên
muốn cứu nước thì phải cứu đảng trước!.. Ngôn ngữ làm nát lòng người này
khiến tôi nhớ lại những ngày tháng lặn lội đi sửa sai cải cách ruộng
đất tại các xã ở Trực Ninh – Nam Định cách đây hơn nửa thế kỷ…
Vâng, đã 69 năm gian truân rồi kể từ Cách mạng Tháng Tám, nhưng hình như khái niệm “chúng ta”
vẫn chưa tìm được chỗ đứng phải có trong ngôn ngữ chính trị bàn về vận
mệnh đất nước, nhất là hôm nay! Tại sao đất nước chúng ta cứ bị chia vụn
mãi ra như vậy hả trời!?..
Song đất nước không phải là của riêng một ai. Những thách thức hôm
nay đang đặt ra cho số phận đất nước cũng không đặt ra cho riêng một ai.
Vì thế xin cho phép tôi trong bài này được dùng khái niệm “chúng ta”
với hàm nghĩa phải có của ngôn ngữ cuộc thảo luận này: “Chúng ta” ở đây là những người chủ của đất nước, không phân biệt một ai.
Người viết cũng xin phép áp đặt sự không phân biệt như
thế để kêu gọi mỗi người Việt chúng ta cùng suy nghĩ và cùng lựa chọn
cho đất nước con đường phải đi và những việc phải làm. Vì đất nước này
là của mỗi chúng ta! Tìm ra sự đồng thuận cao nhất để thực hiện sự không
phân biệt này.
I. Sự lựa chọn của địa lý
Trước khi bàn đến chủ đề “chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc?”, xin
lưu ý các điều kiện địa lý của nước ta trong bối cảnh địa chính trị và
địa kinh tế hôm nay của thế giới và của khu vực tự nó đã định ra
những hướng đi tất yếu và khách quan đất nước phải lựa chọn, trong khi
đó chúng ta bây giờ mới bắt đầu bàn đến lựa chọn gì. Từ cổ chí kim luôn
là như vậy, bất chấp khả năng nhận thức của chúng ta. Cho nên câu chuyện
còn lại của chúng ta hôm nay thật ra chỉ là: chấp nhận sự lựa chọn nào,
thuận hay nghịch với tất yếu khách quan của sự vật...
Trong bài 2 “Hiểm hoạ đen”, phần I “Thế giới đã sang trang”[1],
tôi đã trình bầy khái quát cục diện thế giới đa cực hôm nay với nhiều
biến động sâu sắc khó lường, nhạy cảm với mọi quốc gia; nhiều khu vực
trên thế giới mất ổn định hơn trước hoặc đang có chiến tranh ác liệt
(Trung Đông, thánh chiến ISIS, Ukraina, dịch bệnh ebola…)… Trong đó,
những vấn đề nổi bật liên quan đến Việt Nam là:
• quan hệ và mâu thuẫn Mỹ - Trung trở thành yếu tố chi phối thế giới trong thế kỷ 21, • Châu Á – Thái Bình Dương trở thành trận địa chính của những mối quan hệ song phương Mỹ - Trung,
• siêu cường Trung Quốc đang lên với sức mạnh áp đảo tại chỗ trực tiếp uy hiếp nghiêm trọng Việt Nam, đồng thời trở thành vấn đề của khu vực Đông Nam Á và cả thế giới.
Trong phần I này tôi đặc biệt lưu ý Trung Quốc đang khai thác cục
diện quốc tế mới rất phức tạp, nhằm dấn thêm những bước đi mới trên con
đường trở thành siêu cường, đấy là: (a) đối nội nhấn mạnh nước giầu quân
mạnh để thực hiện giấc mơ Trung Hoa, (b) đối ngoại một mặt xây dựng
liên kết Trung – Nga, mặt khác đưa chiến lược bá chiếm Biển Đông bước
vào giai đoạn mới, trong đó Việt Nam được coi là đột phá khẩu cần khuất phục.
Tính chất quyết liệt của vấn đề là ở chỗ siêu cường đang lên Trung
Quốc bắt đầu đi vào thời kỳ đẩy mạnh bành trướng ảnh hưởng quyền lực để
tự khẳng định chính nó, bên trong lấy chủ nghĩa dân tộc (Đại Hán) nuôi
dưỡng giấc mộng Trung Hoa làm động lực[2],
đối với bên ngoài thì khẳng định chủ quyền theo đường lưỡi bò 9 vạch và
lợi ích cốt lõi không thể nhân nhượng của Trung Quốc ở Biển Đông (tuyên
bố của bộ trưởng quốc phòng Thường Vạn Toàn tại Shangri La, Singapore
30-05-2014, điện đàm Tập Cận Bình – Obama 15-07-2014).
Tuy nhiên việc giàn khoan HD 981 phải di dời đi chỗ khác sớm hơn 30
ngày so với dự kiến do cho thấy Trung Quốc không phải muốn làm gì cũng
được. Nguyên nhân thất bại này là vấp phải sự phản đối kiên quyết của
Việt Nam và sự lên án hầu như của cả thế giới.
Trong giai đoạn mới hiện nay lúc tiến lúc thoái, “…song trọng
tâm lấn tới của Trung Quốc bây giờ nhằm vào vùng biển đảo của Việt Nam.
Về lâu dài Trung Quốc sẽ dùng các thủ đoạn và mọi hình thức can thiệp
mềm hoặc rắn, quyết biến Việt Nam thành chư hầu, coi đây là một khâu
chiến lược quyết định nhằm khống chế khu vực Đông Nam Á và ngoi lên siêu
cường tranh giành ảnh hưởng với Mỹ…” – như tôi đã trình bầy trong thư ngày 24-07-2014 gửi các thành viên chủ chốt Bộ Chính trị.
Cục diện quốc tế và khu vực nêu trên khách quan đặt ra cho Việt Nam 3
kịch bản để lựa chọn, không ý thức hệ hay chủ nghĩa nào có thể xoay
chuyển được, đó là:
Kịch bản 1: Chịu khuất phục làm chư hầu để Trung Quốc sử dụng làm bàn đạp bành trướng trong khu vực Đông Nam Á.
Kịch bản 2: Làm lá chắn hay khu đệm trung lập giữa một bên là Trung Quốc và một bên là các nước Đông Nam Á.
Kịch bản 3: Tự vươn lên giữ vững độc lập chủ quyền
trong mọi biến động của khu vực và thế giới, cùng đi với cả thế giới để
trở thành một đối tác dấn thân cho lợi ích của hoà bình và hợp tác mà
Trung Quốc và cả thế giới đều chấp nhận.
Cũng có thể có một kịch bản thứ tư nữa là đi hẳn với một bên chống
một bên. Song đấy sẽ chỉ là một dạng khác của kịch bản 1 mà thôi, ta sẽ
không thoát được thân phận chư hầu và làm lính đánh thuê không cho bên
này thì cho bên kia, đất nước sẽ trở thành trận địa tranh chấp của các
bên. Vì lẽ này không bàn đến kịch bản thứ tư.
Xin lưu ý: Liên minh Việt – Mỹ để chống Trung Quốc là
chuyện không thể, vì Mỹ không lựa chọn đối đầu với Trung Quốc ngoại trừ
hoàn cảnh bất khả kháng, phía ta cũng không lựa chọn chống Trung Quốc
trừ phi bị Trung Quốc xâm lược. Vả lại Việt Nam như hiện tại không có đủ
những giá trị chung với Mỹ để tạo ra một liên minh với nghĩa là đồng
minh (như Nhật, Hàn Quốc, Philippines…).
Nhưng liên minh Việt – Mỹ để tăng cường khả năng bảo vệ đất
nước là đòi hỏi sống còn, song liên minh này chỉ trở thành hiện thực một
khi Việt Nam lựa chọn sự phát triển của mình phù hợp với lợi ích chung
của Mỹ cũng như của cộng đồng khu vực và thế giới.
Nói cụ thể: Về danh nghĩa chính thức, Mỹ đã trở thành đối tác toàn
diện của Việt Nam, nhưng nội dung còn chưa qua thời kỳ sơ khởi và chưa
thể có thực chất, vì các lẽ:
(a) Còn chế độ toàn trị như hiện nay thì không thể tạo ra một liên
minh với Mỹ, vì Mỹ không thể tin cậy ta, và nội bộ Mỹ cũng không chấp
nhận; hơn nữa cũng không thể ảo tưởng chờ đợi Mỹ sẽ bỏ công sức để bảo
vệ chế độ toàn trị ở Việt Nam.
(b) Một Việt Nam của chế độ toàn trị như hiện nay tất yếu có những
yếu kém đối nội mang tính chất quyết định, vì thế phía Việt Nam không
thể nào đoạn tuyệt được với chính sách đối ngoại “leo dây”. Chính vì lý do này Mỹ chỉ có thể có mối quan hệ với phía Việt Nam ở mức chiến thuật, chứ không thể ở mức liên minh chiến lược.
(c) Hơn nữa tự thân phía Việt Nam vì bản chất toàn trị của chế độ
cũng không dám tạo ra một liên minh như thế để bảo vệ tổ quốc, vì nỗi lo
mất chế độ[3]. Giữ
chế độ toàn trị như hiện nay, không có đủ điều kiện đối nội và đối
ngoại tạo ra một liên minh đúng đắn với Mỹ mà lợi ích quốc gia đang đòi
hỏi.
(d) Mỹ hiện nay chủ động để mở cánh cửa cho hình thành một liên minh
Việt – Mỹ với mục đích củng cố hoà bình và hợp tác trong khu vực, đồng
thời kiềm chế những bước đi bá quyền của Trung Quốc. Hiện nay Mỹ đang nỗ
lực khuyến khích hình thành một liên minh có thể với Việt Nam với điều
kiện Việt Nam phải tự thay đổi. Quan điểm này nằm trong chiến lược trục
xoay Châu Á – Thái Bình Dương và khách quan phù hợp với lợi ích quốc gia
của Việt Nam.
Một đặc điểm vô cùng quan trọng trong cục diện quốc tế thời đại chúng ta đang sống là Mỹ, cộng đồng đa số các nước trên thế giới và Việt Nam cùng nhau chia sẻ nhiều lợi ích chung hơn bao giờ hết so với mọi thời đại trước đây. Trong xu thế mới này, riêng Việt Nam và Mỹ lần đầu tiên khách quan - do địa kinh tế và địa chính trị quyết định - cùng nhau chia sẻ nhiều lợi ích chiến lược chưa từng có. Nói riêng về Việt Nam: Lần đầu tiên trong lịch sử của mình Việt Nam có cơ hội với tính cách là một quốc gia độc lập có thể mở cửa cùng đi với cả thế giới để phát triển chính mình và để trở thành một thành viên có ý thức trách nhiệm chung trong cộng đồng quốc tế, và đây là con đường duy nhất để nước ta với tính cách là một quốc gia độc lập thực hiện được chung sống hoà bình và hữu nghị hợp tác bên cạnh Trung Quốc.
Tôi muốn quỳ xuống nói với từng người Việt Nam, hoặc muốn đứng thẳng quát to vào mặt từng người: Bỏ lỡ cơ hội này sẽ đời đời mang tội với tổ quốc!
Cuối thập kỷ 1980s khi các nước Liên Xô Đông Âu cũ sụp đổ, Việt Nam
đã một lần có một cơ hội tương tự như thế nhưng đã bị bỏ lỡ. Song cơ hội
hồi cuối thập kỷ 1980s không lớn và không thật hoàn toàn rõ ràng, và
đồng thời cũng không thôi thúc bức thiết “sống hay chết!?” như cơ hội
hôm nay.
Lợi ích quốc gia Việt Nam trong cục diện quốc tế mới hiện nay đòi
hỏi phải sớm tiến hành triệt để cải cách chính trị để có những điều kiện
tiên quyết từ đối nội cho phép (1) phát huy nội lực của một quốc gia
độc lập tự chủ, (2) tiến tới tạo ra được một liên minh với Mỹ với nội
dung và tinh thần nêu trên. Đòi hỏi này ngày nay trở thành một trong
những điều kiện tiên quyết của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và
đưa nước ta vào một thời kỳ phát triển mới. Xin đừng bao giờ quên:
Không có một đất nước tự do của con người tự do để có được nội lực và
bản lĩnh phải có, Việt Nam chỉ có thể là một đối tác què quặt, ăn xin,
và vì thế không thể liên minh với bất kỳ ai dù ta muốn, kể cả với Mỹ.
- Tìm kiếm liên minh với Mỹ là hút đối kháng của Trung Quốc vào Việt Nam! Có nên không?
- Trung Quốc đã không dưới một lần “đối kháng” với Việt Nam ngay từ
lúc Việt Nam còn đang chống Mỹ. Vậy lý do này không xác đáng. Sự kiện
giàn khoan HD 981 chắc sẽ có diễn tiến khác nếu không có thái độ quyết
liệt của Mỹ.
- Nhưng Mỹ đã bỏ rơi Cộng Hoà Việt Nam, làm ngơ lúc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Như vậy làm sao mà liên minh được?
- Đúng vậy, nhưng thế giới bây giờ khác với cách đây 40 năm. Việt
Nam cũng khác cách đây 40 năm, Mỹ cũng vậy. Đừng lúc nào quên, ngày nay
đi được với Mỹ đồng nghĩa có khả năng đi được với cả thế giới.
- …
- …
II. Bàn về các kịch bản
Chắc chắn toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta không bao giờ có thể chấp nhận kịch bản 1, do đó không phải bàn đến nữa.
Tuy nhiên, điều đáng lo ở đây là quá trình phát triển của nước ta –
đặc biệt là từ bước ngoặt Hội nghị Thành Đô 1990 – đã tích tụ những yếu
kém và sai lầm đã và đang từng bước biến nước ta trên thực tế và
trên những phương diện nhất định trở thành một dạng chư hầu kiểu mới của
Trung Quốc (như đã phân tích trong bài 2). Tạm gọi đấy là hiện tượng
(đang) trở thành chư hầu kiểu mới một cách gần như là vô ý thức hay là
không ý thức được. Nghĩa là trên thực tế kịch bản 1 đã và đang trở thành
hiện thực từng phần rồi, nhưng ĐCSVN không nhận biết được và cho đến
nay chưa một lần báo động cho cả nước! Điều đáng lo nhất là sự kiện giàn
khoan HD 981 hình như vẫn chưa đủ nghiêm trọng để có thể loại bỏ hẳn sự
vô thức này đang còn tồn đọng ở mức độ nhất định trong không ít những
người nắm vận mệnh đất nước. Đây là vấn đề cần phải được giải quyết dứt
điểm tại đại hội XII sắp tới của ĐCSVN.
Kịch bản 2: Vừa không thể chấp nhận, vừa không khả thi.
(a) Không thể chấp nhận, vì Việt Nam như hiện nay quá yếu kém về
nhiều mặt và do đó không thể đảm đương nổi một vai trò lá chắn cho bất
kỳ ai hay là một khu đệm trung lập; cũng chẳng có một bên hữu quan nào
chấp nhận hoặc tin tưởng giao cho Việt Nam như hiện nay một vai trò như
thế.
(b) Kịch bản này dù ta muốn cũng không khả thi, đơn giản vì nước ta
như hiện nay không thể là một Thuỵ Sỹ Việt Nam ở Đông Nam Á. Không biết
đến bao giờ mới có thể có một Thuỵ Sỹ Việt Nam như thế để đảm đương vai
trò này, hay là không bao giờ. Hơn nữa vì yêu cầu bành trướng quyền lực
của một nước rất đông dân, siêu cường đang lên Trung Quốc không chấp
nhận một quốc gia láng giềng nào là trung lập, dù có xin cũng không
được, kể cả nước lớn như Ấn Độ. Láng giềng với Trung Quốc chỉ có thân
phận: hoặc là đối tượng của bành trướng, nếu không thì phải đi với Trung
Quốc như là Nga hiện nay. Chỉ trừ trường hơp TQ không ăn thịt nổi thì
mới tha làm phúc – nghĩa là chấp nhận là đối tác. Quan điểm "Việt Nam
không đi với bất kỳ một bên nào để chống lại một bên thứ ba" thực ra là
lỗi thời (xem Thế giới đã sang trang) và vô nghĩa đối với
Trung Quốc; quan điểm này trên thực tế che giấu sự nhu nhược và đầu hàng
trá hình; trong khi đó sự thật là Việt Nam đã bị cột chặt vào Trung
Quốc trên nhều phương diện.
Kịch bản 3: Là đáng bàn nhất.
Cũng có thể gọi đấy là kịch bản tự đứng vững trên đôi chân của mình
trong mọi tình huống, không chống lại bất kỳ ai trên thế giới này, nhưng
đi với cả thế giới để phát triển chính mình và để dấn thân cho lợi ích
chung của cộng đồng quốc tế, gắn lợi ích phát triển của chính mình với
lợi ích phát triển chung của cộng đồng quốc tế, đi với cả thế giới để
huy động sự hậu thuẫn và ủng hộ của cả thế giới cho sự nghiệp bảo vệ độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trước mọi nguy cơ bị xâm
lấn. Nói nôm na, đây là sự lựa chọn trở thành một người có nhân cách và
tư thế không ai bắt nạt được, sống được với tất cả mọi người, làm bạn
được với tất cả mọi người, có ích cũng như được sự tôn trọng và tin cậy
của tất cả mọi người. Một trong những cái đích sâu xa của kịch bản này là tạo ra tình thế:
Một khi siêu cường bá quyền Trung Quốc xâm phạm độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, thì sự việc này đồng nghĩa với xâm phạm
những giá trị và lợi ích chung của cộng đồng thế giới và không thể được
cộng đồng thế giới chấp nhận.
Đây là kịch bản duy nhất đúng cho nước ta, song đặt ra cho nước ta những đòi hỏi phấn đấu vô cùng gắt gao.
Sự thật là trên thế giới hiện có không ít quốc gia nhỏ sát nách các
nước lớn hoặc ở trong tình thế nằm lọt thỏm vào thế giới đối nghịch mình
mà vẫn đứng vững và tự khẳng định được mình, đơn giản vì họ phấn đấu có
trí tuệ và kiên cường hơn nước ta rất nhiều. Có thể nêu ra một vài so
sánh khác nữa để suy nghĩ:
Người Singapore học hỏi và lao động với một cường độ cao hơn hẳn so
với người dân nước ta. Tinh thần trách nhiệm và tính khoa học trong công
việc cũng cao hơn.
Nhìn vào Nhật: Thảm hoạ động đất và tsunami ngày 11-03-2011 vô cùng
khốc liệt càng làm rõ thêm những giá trị và phẩm chất Nhật Bản, có thể
nói cả thế giới phải kính phục...
Nếu bạn đã đọc cuốn Quốc gia khởi nghiệp của Dan
Senor, bạn có thể hình dung trí tuệ và nghị lực nào của dân tộc Do Thái
đầy trầm luân đã xây dựng nên nước Israel có nền kinh tế phát triển cao
vào hàng đầu thế giới ngày nay giữa sa mạc và trong lòng thế giới đạo
Hồi.
Bạn cũng nên chịu khó tìm đọc cuốn "Swiss Made" của R.
James Breiding để hiểu những thành công phi thường của quốc gia này,
tạo ra một Thuỵ Sỹ tồn tại phồn vinh giữa các hùm sói châu Âu suốt 3 thế
kỷ vừa qua, và bây giờ Thuỵ Sỹ còn trở thành một trung tâm của Liên
Hiệp Quốc.
Công cuộc cải cách ở Myanmar (bắt đầu từ 2011) dưới thời tổng thống
Thein Sein đã hoá giải thành công trong hoà bình chế độ quân phiệt đẫm
máu kéo dài nhiều thập kỷ, đưa Myanmar bước đi những bước đầu tiên vô
cùng gian truân trên con đường phát triển của dân chủ, bất chấp sự lũng
đoạn khủng khiếp của Trung Quốc. Mọi hiểm nguy đối với Myanmar vẫn ở
phía trước. Cả thế giới tiến bộ đang hồi hộp theo dõi và đứng bên
Myanmar trên con đường mới khai phá này.
Lãnh tụ Nam Phi Nelson Mandela huyền thoại (1918 - 2013) sau khi
lãnh đạo cách mạng Nam Phi xoá bỏ chế độ apartheid để xây dựng thành
công nước Cộng Hoà Nam Phi đã trao lại mọi quyền lực cho nhân dân...
Cuộc chiến tranh Iraq 8 năm ròng (203 -2010), Mỹ ném vào đây khoảng
hai nghìn tỷ USD (thật ra có thể hơn, tuỳ cách tính) và mất khoảng 7000
sinh mạng quân nhân Mỹ. Một trong những mục tiêu chiến lược là nhằm dựng
lên ở đây một chế độ dân chủ, song Mỹ đã thất bại cay đắng, đơn giản vì
văn hoá đạo Hồi và nội tình các sắc tộc và bộ tộc ở Iraq lại chỉ quan
tâm đến tranh giành quyền lực; thậm chí chiến tranh tôn giáo mới (nguy
cơ nhà nước thánh chiến Hồi giáo ISIS) hiện nay đang có nguy cơ biến
dạng quốc gia Iraq và toàn vùng.
Mùa xuân Ả-rập dù ở Ai Cập hay
Lybia…sau khúc dạo đầu đầy hứa hẹn, chiến tranh giữa các sắc tộc và giữa
các bộ tộc cư dân khác nhau lại đang đẩy những quốc gia này vào nội
chiến mới.
Ukraina trên con đường tìm sự phát triển của dân chủ đã mất Krym và
rơi vào nội chiến quyết liệt, nguy cơ đất nước bị chia cắt do sự can
thiệp trực tiếp của Nga rất lớn. Song Ukraina cũng đang cho thấy họ dám
chiến đấu cho con đường mình lựa chọn.
Ngay cạnh nước ta, Thái Lan từ năm 1932 bắt đầu tìm kiếm con đường
trở thành nước phát triển, đến hôm nay đã chìm ngập trong 18 cuộc đảo
chính, song đất nước bị giam hãm tiếp trong cái bẫy quốc gia có thu nhập
trung bình, nguyên nhân chủ yếu là gần 9 thập kỷ rồi mà Thái Lan vẫn
chưa sao xây dựng nổi cho mình một thể chế chính trị nhất thiết phải có
của một nước công nghiệp. Trong khi đó Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore
khởi sự sau Thái Lan nhiều thập kỷ nhưng đã thành công ngoạn mục, chủ
yếu vì họ đã xây dựng được thể chế chính trị phù hợp… Càng rõ, thể chế
chính trị mới là yếu tố quyết định cuối cùng của phát triển.
Có lẽ ở đây cũng phải nhắc đến “sự phấn đấu tự đổi đời” một cách
triệt để và đáng là tấm gương cho cả thế giới suy nghĩ – đó là sự đổi
thay và trỗi dậy từ đống tro tàn của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh,
để hình thành nên nước Đức và nước Nhật hôm nay, với vị thế được tôn
trọng trong cộng đồng thế giới – nguyên nhân thành công chủ yếu của họ
là trung thực với bài học của lịch sử và sự thật.
Trong khi đó nỗ lực đổi đời của Liên Xô cũ chỉ tạo nên một nước Nga
Putin đang đặt một chân lên con đường tạo dựng đế chế Nga mới, còn lâu
mới được như Liên Xô cũ, thậm chí có thể là không thể…
Vân vân…
Nghĩa là thế giới hôm nay có đủ mọi điều hay và cái dở cho nước ta là nước đi sau
học tập và phấn đấu thành công, không còn phải mò mẫm gì nữa. Phải nói
thế này: Đất nước phải trả giá tổn thất bao nhiêu thế hệ, cái duy nhất
Việt Nam hôm nay được hưởng là lợi thế của nước đi sau. Xin ngẫm nghĩ kỹ
điều này. Trong khi đó động lực quyết định làm nên mọi thay đổi trong
thời đại chúng ta đang sống là thông tin và ý chí. Chúng ta hoàn toàn
không thiếu những gương tốt và những kinh nghiệm xương máu trong thế
giới hôm nay để học và để thay đổi triệt để chính bản thân mỗi chúng ta
mà đất nước đang đòi hỏi. Không có một lý do nào có thể biện minh sống
trong thời đại này mà chúng ta không thể tự thay đổi triệt để được chính
bản thân mình, ngoại trừ sự biếng nhác và hèn kém của mỗi chúng ta. Mỗi
chúng ta thay đổi, sẽ cùng nhau thay đổi được đất nước.
Nhìn vào những tấm gương và kho tàng kinh nghiệm của nhân loại hôm
nay, tôi thành thực muốn nói chúng ta còn kém cỏi quá, ươn hèn quá, có
nhiều thói hư tật xấu quá, thậm chí còn lười biếng quá, còn quá nhiều
chuyện làm giả ăn thật, chưa nói đến đầu óc còn quá chật hẹp, và con mắt
chưa hẳn đã muốn có tầm nhìn vươn ra bên ngoài luỹ tre làng ngàn xưa,
dân trí và quan trí đều còn thấp lắm so với thiên hạ xa gần; so ngay với
Thái Lan kinh tế, xã hội và thể chế chính trị nước ta lạc hậu vài chục
năm... Cho phép tôi nói đến mức thế này: Một trong những cái ngu dốt lớn
nhất của chúng ta là chưa thấy hết được cái ngu dốt của chính mình, hơi
một tý là tưng tưng Việt Nam có cái này cái nọ nhất thế giới, nhất châu Á..!
Chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm, có những chiến trận lùi xa cả nửa
thế kỷ hoặc hơn nữa, mà mà niềm tự hào vẫn oang oang không ngớt như để
cố át đi những yếu kém trong cuộc sống hôm nay, bất chấp cả cái lẽ tối
thiểu trên đời trong giao tiếp là ăn trông nồi, ngồi trong hướng……
Vì quyền lực tha hoá nặng nề, nơi chứa đựng nhiều điều u mê nhất
trong cả nước lại là ĐCSVN. Ví dụ: Đến ngày hôm nay trong giới nghiên
cứu cao cấp của ĐCSVN vẫn có người đặt câu hỏi: Xã hội dân sự là cái
gì? Nó có phù hợp với nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội không? Chấp
nhận xã hội dân sự thì mất chế độ! Làm thế nào xây dựng đảng cầm quyền ở
nước ta mà vẫn giữ được chế độ chính trị một đảng?... “Chưa nên cho
phép tự vận động bầu cử tại Việt Nam vì có nhiều đặc thù…”… nghĩa là
chỉ nên duy trì hệ thống nhà nước được tổ chức theo kiều “đảng cử dân
bầu”, cái gì không quản đươc thì nên cấm... Vân vân… Trong khi đó cuộc
sống của đất nước chúng ta hôm nay bên cạnh siêu cường Trung Quốc đang
lên đòi hỏi quyết liệt mỗi người dân và cả nước ta phải có một phẩm chất
mới hoàn toàn khác – đến mức “tồn tại hay không tồn tại!” (“to be or
not to be!”)…
Nói thẳng thắn với nhau, có lẽ chưa có thời nào trong lịch sử đất
nước mà nhân dân chúng ta lại hèn kém như hiện tại so với thiên hạ toàn
thế giới trong hoàn cảnh nước ta có độc lập, hèn kém so với những thách
thức đất nước đang phải đối mặt. Có lẽ chưa có thời nào chúng ta hèn kém
như hiện nay dưới ách cai trị do chính tay mình dựng nên. Chưa có thời
nào chúng ta lại nhu nhược, tự làm tổn thương trầm trọng phẩm giá của
chính quốc gia mình, và chịu để cho danh dự, độc lập chủ quyền và sự
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị Trung Quốc uy hiếp, xâm phạm như hiện nay.
Đất nước thật sự bị dắt mũi từ Hội nghị Thành Đô. Không biết làm sao
nuốt được nỗi nhục này!
Chịu trách nhiệm toàn diện và tuyệt đối về tình trạng hèn kém nói
trên của đất nước và của dân tộc là Đảng Cộng Sản Việt Nam tha hoá hôm
nay. Không thể nói khác.
Chế độ chính trị đảng trị và chính sách ngu dân nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN tha hoá hôm nay
là tác nhân chính mang lại sự hèn kém này cho đất nước, đến mức mỗi
chúng ta – kể cả các đảng viên ĐCSVN – hầu như không đủ năng lực và ý
chí nhìn nhận ra sự hèn kém của chính bản thân mình nữa, đến mức hầu như
mỗi chúng ta cam chịu hai tay buông xuôi. Đối với bên ngoài thì cam
chịu nhắm mắt trước từng bước lấn tới của quyền lực mềm và quyền lực rắn
Trung Quốc. Đối với bên trong, đành ngậm miệng oán trách thầm những
điều ngang trái, hoặc thụ động bó tay chờ đợi, nước chảy bèo trôi được
đến đâu hay tới đó – đấu tranh tránh đâu?.., hoặc có cơ hội thì bỏ nước
đi tìm đường kiếm sống… Trong khi đó hàng ngày nhan nhản những cái giả - diễn – hão
thay nhau hiếp đáp cuộc sống mọi mặt của đất nước... Phải nói đây là
hiện tượng xã hội xuống cấp cùng cực nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám
1945. Đại hội XII sắp tới của ĐCSVN cần mổ xẻ thấu đáo trách nhiệm này
của đảng.
Trong tôi canh cánh câu hỏi phải chăng đây là thời kỳ mạt vận của
khí phách và tinh hoa Việt Nam? Đau lòng lắm, xấu hổ lắm, nhưng không
thể không tự cật vấn mình như thế được.
Song mỗi công dân chúng ta – dù đảng viên hay không đảng viên – cũng
phải gánh chịu phần trách nhiệm riêng của chính mình về thực trạng đất
nước hôm nay, không thể đổ thừa hết mọi chuyện cho chế độ. Chỉ riêng sự
cam chịu một bề như vậy của mỗi chúng ta cũng đủ kết án chúng ta là tòng
phạm, là đồng loã trước toà án lịch sử của đất nước, không thể nói khác
được… Dân nào thì chế độ nấy – đây cũng là một quy luật của phát triển.
Tôi xin phép nói đến mức thế này: Nếu những chuyện đàn áp và làm
nhục dân đang xẩy ra hàng ngày ở nước ta mà lại xảy ra ở các nước của
mùa xuân Ả-rập năm nào, thì có lẽ chế độ chính trị hiện nay của Việt Nam
đáng phải sụp đổ 3 hay 4 lần rồi! Nếu luận rằng “cái ỳ”
này của Việt Nam là biểu hiện cao độ của sự ổn định chính trị, tôi e
rằng đấy là nguỵ biện đáng xấu hổ - cho người giải thích và cho cả người
chấp nhận sự giải thích này.
Đất nước này có đủ tủi nhục để không cần phải chủ động có thêm hay
xúi giục gây thêm một thảm hoạ mới bổ sung nào nữa. Ở vào hoàn cảnh nước
ta hiện nay, điều tai ác là sụp đổ của hiện trạng đồng nghĩa với thảm
hoạ, chắc chắn sẽ thê thảm hơn nhiều lần và sẽ đẫm máu so với sụp đổ
trong hoà bình của Liên Xô. Nhưng không thể vì thế nhắm mắt làm ngơ
trước cái hèn kém của chính mình. Thậm chí sự ngơ điếc này chính là mầm
mống chắc chắn của thảm hoạ sẽ tới mai sau. Điều cần nói rành rọt ở đây:
Nhờ những nỗ lực của cả nước, nhất là trong kinh tế, (đương nhiên phần
quan trọng không kém là còn nhờ cả “sức ỳ” nữa) đất nước mới thoát được
mấy phen sụp đổ như thế của hệ thống chính trị – chứ không phải là nhờ
sự lãnh đạo sáng suốt của đảng và tính ưu việt của chế độ. Song chính
kết quả những nỗ lực này đặt ra đòi hỏi quyết liệt: Không thể kéo
dài mãi tình trạng èo uột đến ngắc ngoải như hiện nay! Phải cải cách
triệt để hệ thống chính trị hiện tại để mở đường sống cho đất nước.
Cái hèn kém đáng phê phán nhất của mỗi người chúng ta trước hết là
sự giác ngộ chưa đầy đủ về quyền và trách nhiệm phải có của công dân với
tư cách là người chủ đất nước của một quốc gia độc lập, là không thắng
được nỗi sợ của chính mình để ý thức được và làm được quyền và trách
nhiệm công dân phải có ấy của mình. Nói riêng trong hàng ngũ ăn lương từ
ngân sách nhà nước – dù là ngạch đảng, ngạch chính quyền, hay ngạch
đoàn thể, cái gọi là “phường giá áo túi cơm” đông quá, ăn hết nhuệ khí
của đất nước và cố níu kéo sự tồn tại của chế độ toàn trị. Tôi trầm ngâm
ước ao, giá mà mỗi chúng ta – trước hết là các đảng viên – dám dấn thân
sống theo lương tri mình một chút, chắc chắn đất nước này đã khác hẳn
rồi! Cái thấp hèn của mỗi chúng ta góp phần không ít vào việc huỷ hoại
đất nước này!..
Cái sợ và sự phản ứng bầy đàn là sản phẩm tồi tệ nhất của hiểu biết
thiếu hụt, là đồng minh lợi hại của mọi thế lực đen tối ngay trong lòng
đất nước chứ không phải ở đâu xa, là trở lực hoặc thậm chí bị lạm dụng
làm phản lực chống lại cái tiến bộ và cải cách[4].
Chẳng có sự diễn biến hoà bình hay biến chất đạo đức chính trị tư tưởng
nào đáng sợ cả, mà chỉ có cái việc lấy cái được gọi là diễn biến và biến chất
này để hăm doạ sự bất bình trong lòng nhân dân và xí xoá đi cái tha hoá
của quyền lực mà thôi. Phụ hoạ một cách vô ý thức vào tình trạng này
chính là cái sợ của mỗi chúng ta.
- Nhưng mà, cứ làm khác là bị đàn áp! Vừa không có cái mồm để nói, trong tay vừa không có quyền!..
- Chỉ còn cách phải tự mở mồm, chấp nhận mọi đàn áp để mở mồm. Phải
giành lấy quyền! Một người không làm nổi thì hè nhau cùng làm! Phải học
để làm đúng.
- Nhưng mà sợ lắm. Sợ nhiều thứ.
- Chịu bó tay vì sợ thì ngày xưa đứng lên chiến đấu cứu nước để làm gì? Hãy cùng vượt lên nỗi sợ để cùng làm![5]
- …
- …
Sống há miệng chờ sung rụng đã là không ổn, nói chi đến khoanh tay
chờ được ban phát quyền và trách nhiệm như thế - những thứ này phải học
và phải đấu tranh mà giành lấy.
Sống cạnh Trung quốc trong thế giới hôm nay, nước ta không thể lựa
chọn cách sống nước chảy bèo trôi thế nào cũng được. Tự do của chúng ta
mà trời đất và tự nhiên ban tặng chỉ là sự tự do được phép tuỳ ý lựa
chọn cho đất nước một trong 3 kịch bản như đã nêu trên mà thôi. Và vì tự
do của chính mình, mỗi chúng ta chỉ có con đường lựa chọn kịch bản 3
cho đất nước.
Nhất thiết không thể để đất nước như thế này sống qua ngày đoạn tháng bên cạnh Trung Quốc. Để thực hiện kịch bản 3,
mỗi chúng ta hãy bắt đầu từ học và quyết thực hiện quyền và trách nhiệm
công dân của mình, trước tiên là để triệt để thay đổi chính mình, rồi
vượt lên mọi nỗi sợ thực hiện quyền và trách nhiệm của mình góp phần vào
cải cách thể chế chính trị của đất nước, đưa đất nước sang trang mới.
Muốn đất nước tiến hành cải cách triệt để thể chế chính trị hiện hành
trong hoà bình và phát triển, mỗi chúng ta phải quyết học như vậy.
"...Đời đời sống cạnh Trung Quốc mà mỗi chúng ta không có trí tuệ, ý chí
và nghị lực luôn luôn thắng được ý đồ của Trung Quốc đầy bản chất bá
quyền, nước ta chỉ đáng sống trong kiếp chư hầu, nô lệ. Đã đến lúc cả
nước và toàn Đảng cần hiểu rõ đòi hỏi bắt buộc này, để tiến hành bằng
được cuộc cải cách chính trị sâu rộng hiện nay đã chín muồi nhằm thay
đổi hẳn đất nước..." [6]
Sự sống còn của đất nước đặt ra những đòi hỏi nghiệt ngã như vậy. Song đồng thời cũng phải thấy hết tinh hình nguy hiểm: Thực
trạng mọi mặt của đất nước ta hiện nay nhạy cảm đến mức cứ đụng vào sửa
chữa mà ngu dốt là có thể đẫn đến sụp đổ, có lẽ còn nguy khốn hơn so
với Liên Xô năm nào! Không một ai được ngoảnh mặt trước sự thật phũ
phàng này vì bất kỳ lý do gì.
Quyền lực cai trị đất nước đang vin vào thực tế nhạy cảm này để
chống lại cải cách, nhân danh duy trì sự ổn định. Đây là sự ngoan cố duy
trì cái sống tạm thời cho quyền lực bằng cách đi sâu thêm nữa vào con
đường chết của đất nước, không thể chấp nhận.
Để vượt qua sự nhạy cảm có thể gây ra sụp đổ bất cứ lúc nào như thế,
chỉ có một con đường là trung thực với sự thật, mở ra đối thoại xây
dựng với tất cả tinh thần trách nhiệm theo tinh thần Diên Hồng trong cả
nước, từ đó tìm ra sự đồng thuận cao nhất để có khả năng tiến hành cải
cách thể chế chính trị trong hoà bình và phát triển. Đấy là con đường
sống. Đối thoại trung thực với sự thật như thế trong nội bộ đảng, giữa
đảng và nhân dân, và giữa cả nước với nhau theo tinh thần Diên Hồng như
vậy, sẽ chẳng có nguy hiểm nào có thể tước bỏ hay lấy cắp được con đường
cải cách nước ta nhất quyết phải lựa chọn. Trong dân nhiều năm nay đã
có không ít tiếng nói phát đi theo hướng tâm huyết này, đảng cần lắng
nghe và đủ can đảm đối thoại chứ không được trấn áp tệ hại như đang làm.
Hơn nữa, duy nhất nắm quyền lực trong tay, ĐCSVN có trách nhiệm ràng
buộc phải chủ động và làm tất cả mọi việc có thể để tổ chức thành công
đối thoại Diên Hồng như vậy.
III. Đại hội XII lựa chọn gì?
III.1. Bàn về cái không thể và cái có thể
Trước hết xin chia sẻ, 10 bạn đọc các bài viết của tôi thì có đến 9
bạn không thích phần tôi viết về ĐCSVN, càng không thích hoặc thậm chí
rất ghét phần tôi khuyến nghị ĐCSVN nên thay đổi như thế nào. Thái độ
như vậy không phải là vấn đề cảm tính hoặc là hệ quả của những bức xúc
từ cuộc sống. Phản ứng tiêu cực này chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm
dẫn tới sự khẳng định: ĐCS nói chung là không thể thay đổi được, ĐCSVN
không phải là ngoại lệ. Một số trong những bạn đọc này còn viện dẫn ý
kiến của Yeltsin: ĐCSLX không thể thay đổi được, chỉ còn mỗi cách đập tan nó!
Những người có trách nhiệm trong đảng, trước hết là Bộ Chính trị, cần
phân tích thấu đáo phản ứng này của dư luận nước ta. Bản thân tôi cũng
cho sự khẳng định này có căn cứ xác đáng. Bởi sự thật là không có một
ĐCS nào trong các nước Liên Xô Đông Âu cũ chịu chấp thuận cải cách. Tất
cả các đảng này chỉ kết thúc bằng quá trình sụp đổ hoặc bị xoá sổ. Sự
ngoan cố của ĐCSVN trước những đề nghị cải cách cũng rất rõ.
Tuy nhiên, có một khía cạnh cần xem xét dưới đây.
Trong nhiều bài viết của mình, tôi cho rằng ĐCSVN từ nhiều thập kỷ
nay không còn là đảng lãnh đạo nữa, mà chỉ là lực lượng chính trị lớn
nhất đang nắm lọn quyền cai trị đất nước. Vấn đề đặt ra là câu hỏi: Xử sự như thế nào với cái lực lượng chính trị lớn nhất nước này?
- Giải tán bằng luật pháp hay xoá bỏ bằng bạo lực? Cách làm này là
không thể và sẽ tiếp tục không thể như thế một thời gian khá dài nữa.
Lại càng không thể “bói” được là bao giờ ĐCSVN sẽ tự sụp đổ, dù rằng đây
sẽ là kết cục tất yếu của tha hoá. Xoá bỏ bằng bạo lực dù muốn làm và
làm được, cũng không phải là phương án tối ưu cho đất nước trong hiện
tại, bởi vì sẽ gây ra binh đao nồi da xáo thịt vô cùng thảm khốc,
chưa ai có thể nói trước kết cục sau đó sẽ là gì. Và kể cả một khi đã
xảy ra một cuộc bể dâu như thế, trước sau cải cách vẫn là nhiệm vụ không
thể trốn tránh.
- Tôi mong mỏi mỗi chúng ta hãy tự học để tự thay đổi chính mình
trước tiên trước khi bắt tay vào cải cách thay đổi thể chế chính trị của
đất nước, và điều này là khả thi trong thế giới hôm nay. Vậy hà cớ gì
tôi lại không đồng thời cùng đặt vấn đề như thế đối với từng đảng viên
và toàn thể ĐCSVN? Vả lại, như chúng ta đã thấy ở Myanmar, cải cách thể
chế chính trị từ trên xuống và từ trong ra của hệ thống quyền lực là hứa
hẹn thành công nhất và đỡ tốn kém xương máu nhất. ĐCSVN hiện nay có mọi
điều kiện cần và đủ để cải cách thành công như thế, chỉ còn thiếu ý chí
đặt lợi ích quốc gia lên trên hết[7]. Cũng có ý kiến cho rằng ĐCSVN không thể làm được cải cách này, vì bị nô lệ ý thức hệ và vì đang thiếu một minh quân giương cờ…
- Giả thiết rằng mọi nỗ lực của cả nước tìm đường cải cách bắt đầu
từ trên xuống và từ trong ra trong hệ thống quyền lực của ĐCSVN đã được
thực thi hết mức mà vẫn thất bại, thì phương án xoá bỏ bằng bạo lực
chẳng những sẽ là không tránh khỏi sau đó, mà còn là bước phát triển
tất yếu tiếp theo, tự phát từ nhân dân, và sẽ chẳng có gì ngăn nổi như
đã từng xảy ra ơ nhiều nước khác, sự cáo chung của ĐCSVN sẽ trở thành
đương nhiên, thảm hoạ cũng là đương nhiên. Tôi đã cảnh báo rõ ràng như
vậy trong nhiều bài viết của mình.
- Cải cách ở nước ta để chuyển sang thể chế chính trị của nhà nước
pháp quyền dân chủ hầu như chắc chắn sẽ là một cái gai phải nhổ trong
con mắt siêu cường đang lên Trung Quốc. Bởi vì ảnh hưởng lan toả của cải
cách này có thể nguy hiểm đối với Trung Quốc. Song chúng ta phải làm
việc phải làm của mình, không thể chờ đợi Trung Quốc cho phép hay không
cho phép. Một khi Trung Quốc học tập kinh nghiệm đã xảy ra ở Krym và
Đông Ukraina quyết xóa bỏ cuộc cải cách này của nước ta, nhân dân ta sẽ
lại một lần nữa phải chấp nhận hy sinh xương máu, nhưng sự nghiệp cải
cách này sẽ trở thành bất khả kháng và rất triệt để, cái thòng lọng ý
thức hệ và “4 tốt và 16 chữ” đang siết lên cổ đất nước sẽ bị loại bỏ dứt
khoát và vĩnh viễn.
Những lý do tại sao tôi lựa chọn con đường vận động cả nước không loại trừ một ai tiến hành cải cách như thế có lẽ đã rõ.
(1) Đất nước đang đòi hỏi gay gắt phải có một thể chế chính trị mới
để ra khỏi bế tắc hiện nay và để trở thành một nước công nghiệp, (2) cục
diện thế giới đặt ra nhiều thách thức mới nghiêm trọng, đồng thời cũng
đang mở ra vận hội mới chưa từng có đổi đời đất nước dứt khoát phải nắm
lấy (3) thách thức của siêu cường đang lên Trung Quốc trực tiếp uy hiếp
nước ta với ý đồ chiến lược biến nước ta thành chư hầu để đẩy mạnh bá
chiếm Biển Đông – đấy là 3 yếu tố quyết định buộc chúng ta phải lựa chọn kịch bản 3 cho Tổ quốc. Sự lựa chọn này là có thể, và không được thoái thác.
III.2. Những vấn đề đặt ra cho Đại hội XII
Trong bài “Hiểm hoạ đen” (bài 2), tôi đã trình bầy khái quát ý kiến
của tôi về tình hình đất nước sau 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên,
với nhận xét tổng quát: Về cơ bản đây là một giai đoạn phát triển thất bại.
Nhận xét này này dựa trên các đánh giá sau đây:
(1) Thành tựu đạt được không cân xứng với nguồn lực và công sức đã
huy động được, nhiều cơ hội lớn có tính bước ngoặt đã bị bỏ lỡ[8];
sự phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới ngưỡng không thể vượt qua,
tích tụ cho đất nước hôm nay nhiều ách tắc lớn của cái bẫy quốc gia có
thu nhập trung bình thấp, không thể đạt được mục tiêu trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020[9].
Xin nhấn mạnh: trong 3 thập kỷ công nghiệp hoá nước ta huy động được
nguồn lực nhiều gấp đôi Hàn Quốc trong thời kỳ này, Hàn Quốc trở thành
NIC (nước mới công nghiệp hoá), nhưng Việt Nam trở thành một nền kinh tế
của người đi làm thuê và của đất nước cho thuê.
(2) Chế độ chính trị hiện hành xuống cấp nghiêm trọng vì tệ nạn quan
liêu tham nhũng, ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp kìm hãm sự phát
triển của đất nước; xã hội nước ta từ hơn một thập kỷ nay bị khủng hoảng
sâu sắc về nhiều mặt - tiêu biểu nhất là nhân dân mất lòng tin vào chế
độ chính trị và đảng nắm quyền; bất công xã hội ngày càng lớn; tự do dân
chủ và quyền con người bị xâm phạm nghiêm trọng; đặc trưng của chế độ
toàn trị hiện nay là: nhân dân không phải là người làm chủ đất nước,
đảng đứng trên Hiến pháp.
(3) Độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và nhiều lợi
ích chính đáng khác của đất nước bị Trung Quốc xâm phạm và uy hiếp
nghiêm trọng (hơn cả thời kỳ có chiến tranh biên giới 17-02-1979 do
Trung Quốc tiến hành); đường lối đối nội và đối ngoại sai lầm đã dẫn đến
tình trạng Việt Nam rơi vào vị thế quốc tế của nước phải “leo dây”
(song trên thực tế là bị cột chặt vào Trung Quốc) và hầu như không có
bạn hoặc liên minh với đúng nghĩa để tạo thanh thế, mặc dù Việt Nam đã
thiết lập được quan hệ đầy đủ với hầu hết mọi quốc gia trên thế giới và
có quan hệ đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện với tất cả các nước
có vị thế quốc tế quan trọng. Mặt nào đó mà xét, Việt Nam lâm vào một
thế cô lập trên thực tế (de facto) khá nguy hiểm: Chung quanh là các
nước láng giềng nhỏ yếu dễ bị Trung Quốc chi phối, ngoài biển là cái
đường lưỡi bò đang hình thành, ngoài ra rất dễ bị chấn thương trên các phương diện kinh tế, chính trị, quân sự.
Có thể kết luận: Sau 40 năm độc lập, trong đó có 30
năm đổi mới, Việt Nam hiện nay là một nước yếu về đối nội và đối ngoại
so với những thách thức phải đối mặt, con đường phát triển đang bế tắc
với cơ cấu kinh tế và thể chế chính trị toàn trị hiện tại, đất nước chịu
sự lệ thuộc và lũng đoạn nghiêm trọng từ phía Trung Quốc mà chưa có
cách gì thoát ra được, khoảng cách tụt hậu ngày càng rộng. Nguồn gốc của
tình hình này là những yếu kém và sai lầm của ĐCSVN trong suốt thời kỳ
này.
Xin nhắc lại, khoảng trên 10 năm qua trong các quá trình
chuẩn bị các đại hội đảng, liên tục kể từ đại hội IX, X và XI của ĐCSVN,
các ý kiến đóng góp của dư luận trong nước – đặc biệt là của các trí
thức, trong đó có nhiều đảng viên lão thành – tập trung vào 3 vấn đề
quan trọng:
1. Đường lối phát triển kinh tế sai lầm, chưa có một chiến lược kinh
tế nào đã đề ra có thể thực hiện được (chiến lược công nghiệp hoá,
chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn, chiến lược kinh tế biển,
chiến lược kinh tế vùng, chiến lược sản phẩm…), chỉ dựng lên được một
nền kinh tế gia công với cơ cấu lạc hậu.
2. Thể chế chính trị bất cập, trở thành một hệ thống quan liêu ăn
bám nặng nề. Các nhóm lợi ích chi phối nặng nề (a) tập đoàn kinh tế nhà
nước, (b) nền kinh tế GDP tỉnh, và (c) sự vận hành theo tư duy nhiệm kỳ
của quyền lực, qua đó biến dạng luật pháp và toàn bộ kỷ cương đất nước.
Đây là nguyên nhân gốc kìm hãm sự phát triển của đất nước. Đất nước độc
lập 40 năm, nhưng quyền làm chủ đất nước của nhân dân vẫn chưa được thực
hiện, khả năng thực thi luật pháp rất thấp. Thể chế chính trị như đang
tồn tại là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu làm thất bại chiến lược công
nghiệp hoá.
3. Đường lối đối ngoại nói chung không đáp ứng thoả đáng những đòi
hỏi của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là thất bại nghiêm
trọng trong chính sách đối ngoại của nước ta kể từ Hội nghị Thành Đô đã
giúp quyền lực mềm và quyền lực rắn Trung Quốc lũng đoạn toàn diện và
sâu sắc nhiều mặt cuộc sống của đất nước, tạo ra cho nước ta sự lệ thuộc
nguy hiểm, uy hiếp trực tiếp và ngày càng nghiêm trọng độc lập chủ
quyền quốc gia của ta. Quan hệ Việt – Trung như đang diễn ra có nguy cơ
chặn đứng tương lai phát triển của đất nước.
Cho đến nay cả 3 vấn đề cốt lõi nêu trên tiếp tục là 3 vấn đề nóng
bỏng của đất nước. Bộ Chính trị và BCHTƯ cả 3 khoá IX, X và XI cho đến
nay không thèm đếm xĩa đến và vẫn giữ thái độ im lặng đối với sự đóng
góp xây dựng này.
Thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gửi Bộ Chính trị và BCHTƯ ĐCSVN đặt vấn đề:
- Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, ĐCSVN cần thay đổi cương
lĩnh để chuyển hẳn sang đường lối phát triển dân tộc và dân chủ, chuyển
đổi thể chế toàn trị hiện nay sang thể chế của nhà nước pháp quyền dân
chủ; chấm dứt ngay các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện
đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự
mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự
chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.
- Bạch hoá những vấn đề nghiêm trọng trong quan hệ Việt – Trung kể
từ Hội nghị Thành Đô; thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và
trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức
trước những bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc muốn bá chiếm Biển
Đông; vạch ra con đường phát triển để thoát khỏi cơ cấu kinh tế lạc hậu
và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay; tạo ra hợp tác, liên
kết, liên minh có hiệu quả với các nước ASEAN và trong cộng đồng quốc tế
- nhất là với các cường quốc – có khả năng làm thất bại mưu đồ Trung
Quốc bá chiếm Biển Đông và hậu thuẫn đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc của nước ta.
- Thư ngỏ yêu cầu phải có sự lựa chọn dân chủ các đại biểu thực sự
có năng lực đáp ứng nhiệm vụ quan trọng của đại hội đảng toàn quốc lần
thứ XII; đồng thời phải thật sự dân chủ bầu ra một Quốc hội chuyên
nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp để chuyển
đổi thể chế chính trị.
Thiết nghĩ những vấn đề trong thư ngỏ này liên quan đến vận mệnh
sống còn của đất nước, đại hội XII sắp tới cần đánh giá thấu đáo và phải
đi tới những quyết sách đáp ứng.
Điều quan trọng số một đối với đại hội XII là ĐCSVN là đảng độc
quyền trong hệ thống chính trị đứng trên hiến pháp, tha hoá trong 4 thập
kỷ vừa qua đã lấy đi mất khả năng lãnh đạo của đảng. Sự tha hoá này một
mặt trực tiếp phản bội lại lý tưởng và truyền thống cách mạng vì dân vì
nước đã từng lập nên ĐCSVN, mặt khác biến cái đảng tha hoá
này thành nhân tố trực tiếp nhất và quyết định nhất giam hãm sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, để xảy ra ngày càng nhiều hiện tượng đối
kháng với lợi ích của quốc gia và của dân tộc. Đảng đứng trước sự thật lạnh lùng chết người là:
Nếu tiếp tục giữ ĐCSVN như hiện nay, đất nước sẽ lún sâu thêm nữa vào
khủng hoảng mọi mặt; đảng sẽ càng tha hoá và bất lực tiếp, khiến cho đất
nước phải chuốc thêm nhiều tổn thất mới. Dẫn tới hệ quả đảng sẽ buộc
phải chấp nhận những thất bại mới hoặc phải lao vào những sai lầm và tội
lỗi mới để bảo vệ chế độ của mình. Tình hình này sẽ đẩy mạnh hơn nữa sự
phản kháng của nhân dân, chế độ sẽ phải đàn áp dân tàn bạo hơn.., và
cuối cùng sẽ dẫn tới con đường chế độ công khai chống lại nhân dân,
chống lại đất nước. Diễn tiến này từ nhiều năm nay đã manh nha qua các
vụ đàn áp những bất bình của nhân dân và các vụ bắt bớ, xử án những
người bất đồng chính kiến… Phải nói thẳng là sự uy hiếp của Trung Quốc
dù nguy hiểm với nước ta đến mức nào chăng nữa cũng không đáng sợ bằng
sự tha hoá trầm trọng hiện nay của đảng và toàn bộ hệ thống chính trị
đất nước. Ta thua hay thắng ý đồ bành trướng của Trung Quốc trước hết là
tuỳ thuộc ở điểm đối nội mấu chốt này.
Nếu muốn đi với đất nước tại bước ngoặt định mệnh này, ĐCSVN hôm nay
không có cách nào khác là phải tự lột xác để không còn là mình như hôm
nay nữa và qua đó phấn đấu trở thành một đảng mới, đồng thời đảng phải
thực hiện trách nhiệm ràng buộc là chủ động tiến hành cải cách để thay
đổi cái chế độ chính trị toàn trị hiện hành là con đẻ của đảng. Không ý
thức hệ hay chủ nghĩa nào có thể cứu đảng hay giúp đảng trốn tránh được
hai nhiệm vụ phải làm này.
Chọn đất nước, có nghĩa đảng phải lột xác đến mức như vừa nói trên.
Còn muốn giữ đảng như hiện tại, đảng phải chống lại đất nước. Vì lẽ này
đảng đang đứng trước bước ngoặt định mệnh, không cách gì lẩn tránh
được.
Song lột xác cái đảng tha hoá ngày càng trầm trọng này như thế nào? có làm được không?
Trong buổi tiếp Dương Khiết Trì ngày 18-06-2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định:
lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa và trên Biển Đông là không thay đổi và không thể thay đổi.
Tổng bí thư khẳng định như vậy là đúng đắn. Nhưng điều kiện tiên
quyết để thực hiện khẳng định này là phải có một Việt Nam mạnh và có bản
lĩnh. Đặt vấn đề như thế, sẽ chỉ có một con đường là ĐCSVN hôm nay
trước tiên phải tự thay đổi chính mình theo con đường dân tộc và dân
chủ để trở thành một đảng mới, qua đó cùng với cả nước tạo ra một quá
trình hình thành một Việt Nam mới như thế. Có làm được không? Nói được
như thế mà không đi đến cùng được như thế, sẽ làm sao lay chuyển được
Trung Quốc?
Cho đến hôm nay, tôi không thấy, hoặc chưa có điều kiện được thấy
việc chuẩn bị đại hội XII đang tiến hành theo hướng tiếp cận những vấn
đề như đã xới ra trên đây! Vậy đại hội XII sẽ lựa chọn gì cho đất nước,
cho chính bản thân đảng của mình? Những gì thấy được trên phương tiện
truyền thông “lề phải” hình như vẫn là ngựa quen đường cũ: Từ khâu
chuẩn bị nhân sự và khâu bầu chọn các cấp chủ yếu vẫn theo cách làm cũ;
lời căn dặn của những người lãnh đạo: tổng kết tình hình đất nước chuẩn
bị cho đại hội phải dựa vào cương lĩnh và hiến pháp… Nếu đúng là như vậy thì nguy hiểm quá,
vì cách làm đại hội theo kiểu này hình như báo hiệu khả năng ĐCSVN thay
đổi và việc cải cách xoá bỏ chế độ toàn trị có lẽ đến 99% là không hiện
thực.
Tôi xin lưu ý: Đại hội XII hoặc là sẽ mở ra được một bước ngoặt cho
ĐCSVN và cho đất nước, hoặc là báo hiệu một thời kỳ đen tối mới của đất
nước và gia tăng những yếu tố trước sau sẽ dẫn đến sụp đổ của chế độ,
tất cả tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của từng đảng viên và toàn đảng ở ngay
đại hội XII này, không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai khác hay cho lý do nào
khác. Ngay từ bây giờ, từng đảng viên cần có tiếng nói của mình cho việc
tiến hành một đại hội đúng đắn và nghiêm túc tình hình đất nước đang
đòi hỏi.
IV. Kiến nghị
Khoản 2 điều 4 của Hiến pháp ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.”
Chiểu theo tinh thần và lời văn của khoản này tôi kiến nghị: Công khai
hoá tới mức tối đa toàn bộ quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội XII.
Đơn giản vì mọi việc của đại hội đều liên quan trực tiếp đến vận mệnh
quốc gia, nhân dân cần được biết, cần có tiếng nói của mình với đại hội,
cần được giám sát những việc đại hội làm... Tại các nước văn minh, các
đảng chính trị đều phải làm như thế khi họp đại hội để tranh cử, chương
trình hành động của đại hội phải được dân tán thưởng mới hy vọng thắng
cử. Hơn nữa, gắn bó mật thiết với dân như viết trong khoản 2 điều 4 của Hiến pháp trước hết có nghĩa đại hội XII phải quyết định những vấn đề đặt ra đúng với lợi ích quốc gia và nguyện vọng của nhân dân.
Đặt vấn đề như vậy, tôi xin có một số đề nghị sau đây.
IV.1. Bàn về nội dung cốt lõi của đại hội XII
Đứng trước bước ngoặt hiện nay của đất nước, trung thực với các bài
học của lịch sử và sự thật là đòi hỏi tất yếu để nhận thức đầy đủ lợi
ích sống còn của tổ quốc, từ đó có được ý chí thoát khỏi tình trạng lũng
đoạn của Trung Quốc, xoá bỏ sự cai trị mang tính chất ngu dân và nô
dịch đang kìm hãm đất nước do chế độ toàn trị hiện nay của đảng vô ý
thức hay có ý thức đã tạo dựng nên, quyết mở đường cho đất nước chuyển
sang một giai đoạn phát triển mới, nhằm thực hiện khát vọng đời đời của
nhân dân về độc lập - tự do - hạnh phúc[10],
tranh thủ sự hậu thuẫn của cộng đồng khu vực và quốc tế cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, dấn thân đóng góp vào nỗ lực chung của cả
thế giới vì hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đã đến lúc ĐCSVN phải đặt ra
cho mình nhiệm vụ như vậy. Nhiệm vụ này đồng nghĩa là sự khai sinh
mới của ĐCSVN hiện nay: sự ra đời của một đảng vì dân tộc và dân chủ,
chỉ có lý tưởng và mục tiêu duy nhất là phụng sự tổ quốc và nhân dân,
mang lại cho tổ quốc vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới. (vấn đề 1)
Xuất phát từ kết luận nêu trong phần III.2. bên trên: “Sau 40
năm độc lập, trong đó có 30 năm đổi mới, Việt Nam hiện nay là một nước
yếu về đối nội và đối ngoại so với những thách thức phải đối mặt, con
đường phát triển đang bế tắc với cơ cấu kinh tế và thể chế chính trị
toàn trị hiện tại, đất nước chịu sự lệ thuộc và lũng đoạn nghiêm trọng
từ phía Trung Quốc mà chưa có cách gì thoát ra được, khoảng cách tụt hậu
ngày càng rộng…”, đứng trước bước ngoặt hiện nay của đất nước,
hãy coi 40 năm qua là sự mày mò tìm kiếm gian khổ con đường phát triển
của một quốc gia mới giành được độc lập thống nhất. Hãy coi những gì đã
thành đạt được trên chặng đường 40 năm này là vốn liếng khiêm tốn đầu
tiên cho khởi sự sự nghiệp mới này. Hãy coi những thất bại trên chặng
đường 40 năm này là các bài học nhớ đời và rút ra từ đó những kinh
nghiệm để khởi sự và thực hiện thành công sự nghiệp mới. Đã đến
lúc cả nước phải đứng lên mở ra một thời kỳ phát triển mới cho tổ quốc!
ĐCSVN hiện nay với tính cách là một đảng mới của dân tộc và dân chủ coi
thúc đẩy nhiệm vụ này là lẽ sống và lý tưởng phấn đấu của mình (vấn đề 2).
Sống trong thế giới thế kỷ 21 đầy những thách thức sống còn và biến
động khó lường của một trật tự quốc tế mới khác hẳn với 5 – 10 năm
trước, lại đúng vào thời điểm siêu cường đang lên Trung Quốc coi Việt
Nam là đột phá khẩu cần khuất phục trong đẩy mạnh mưu đồ bá chiếm Biển
Đông, Việt Nam nhất thiết phải trụ vững với tính cách là một quốc gia có
sức mạnh và bản lĩnh bảo vệ được độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh
thổ của mình, đồng thời phải là một thành viên dấn thân trong cộng đồng
ASEAN để cùng nhau gìn giữ hoà bình và ổn định trong khu vực, cùng nhau
phấn đấu cho sự phát triển thịnh vượng của mọi quốc gia. Phát huy sức
mạnh của chính mình và tranh thủ sự hậu thuẫn của toàn thế giới trở
thành đòi hỏi sống còn để thực hiện được những mục tiêu này. Để có được
trí tuệ, ý chí, nghị lực và sự quyết đoán đúng đắn cho mọi vấn đề đặt
ra, nhất thiết phải lấy các giá trị của dân tộc và những tinh hoa
tinh thần của nhân loại làm nội dung, làm chuẩn mực xây dựng con người
và xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới này.
Thừa nhận đòi hỏi này, phải nói đất nước ta sẽ có nhiều cái phải học lại
từ đầu, phải làm lại từ đầu, thậm chí có nhiều cái phải thay đổi hẳn
cách nghĩ và cách làm vì 40 năm qua và 70 năm qua có không ít tác động
tạo nên trong đời sống của chúng ta những nếp nghĩ và thói quen lạc hậu,
sai trái khó sửa. Nghĩa là cuộc sống trong thế giới hiện tại đặt ra cho
cả nước phải tiến hành một cuộc cải cách toàn diện và triệt để chưa từng có nhằm đổi đời chính bản thân dân tộc ta và đất nước ta.
Chẳng có tư tưởng, chủ nghĩa hay ý thức hệ nào có thể giúp dân tộc ta
tạo ra được sự thay đổi đến mức đổi đời như thế này. Ta trở thành chính
ta như thế, ta mới là người tự do và có cả thế giới là bạn bè bình đẳng.
Để ta trở thành ta như thế, học hỏi trở thành đòi hỏi sống còn như con
người cần không khí để thở vậy. Nói rốt ráo, chính dân tộc ta cũng phải
lột xác vứt bỏ quá khứ nghèo nàn và lạc hậu của mình, phải tỉnh ngộ để
thoát khỏi cái cái thân phận suốt chiều dài lịch sử nếu không bị ngoại
bang ăn hiếp thì lại luôn luôn là cái bóng của ngoại bang. Chúng
ta phải học hỏi và phấn đấu trở thành một dân tộc mới của một quốc gia
mới để có một Việt Nam giữ được độc lập tự chủ của mình đồng thời có thể
cùng với cả cộng đồng thế giới dấn thân cho hoà bình, hợp tác và phát
triển[11]. (vấn đề 3).
Nhìn về mọi phương diện, nhiệm vụ mở ra một thời kỳ mới cho đất nước đã chín muồi.
Câu hỏi đặt ra là Bộ Chính trị, BCHTƯ và toàn thể đảng viên ĐCSVN có
đặt mọi vấn đề phải thảo luận và phải quyết định tại đại hội XII này
theo hướng và xứng tầm với 3 vấn đề trọng đại nêu trên đang đặt ra cho
đất nước hay không?
Với cách nhìn đại hội XII coi như là bước đi đầu tiên của ĐCSVN
trong nhiệm vụ cùng với cả nước mở ra một thời kỳ mới của đất nước, đại
hội nên tập trung vào 3 nội dung chính:
(1) Cải cách xoá bỏ thể chế chính trị toàn trị hiện nay mang tính
chất cai trị áp bức dân và kìm hãm đất nước, chuyển sang chế độ chính
trị pháp quyền dân chủ mang lại tự do và sức mạnh toàn diện cho đất nước
để phát triển trên con đường dân tộc và dân chủ.
(2) Hoàn thiện kinh tế thị trường nhằm đưa kinh tế ra khỏi tình
trạng bế tắc hiện nay và mở ra một giai đoạn phát triển mới để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
(3) Đổi mới xây dựng ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc và dân chủ để
phấn đấu trở thành đảng cầm quyền trong chế độ nhà nước pháp quyền dân
chủ.
Xin được bàn đến 3 nội dung quan trọng này trong một bài sau.
VI.2. Kiến nghị thay đổi cách tiến hành đại hội
Song song với việc chuẩn bị đại hội như các tiểu ban trù bị (nay gọi
dưới cái tên chung là ban trù bị) đang tiến hành, đề nghị lập một nhóm ad hoc
do một số đảng viên có năng lực trực tiếp xây dựng một báo cáo độc lập
tổng kết những vấn đề lớn trong tình hình đất nước và nêu lên những vấn
đề lớn tìm lối ra cho đất nước hiện nay; soạn thảo trình đại hội một số
dự án cần thiết, ví dụ: (1) dự án cải cách thể chế chính trị, (2) dự án
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, và (3) dự án cải tổ ĐCSVN thành
đảng của dân tộc và dân chủ đáp ứng đòi hỏi của việc mở ra một thời kỳ
mới cho phát triển đất nước, vân vân…
Báo cáo tổng kết độc lập này của nhóm ad hoc chủ yếu cần nêu
lên những nhận định và phương hướng chính của nhiệm vụ phát triển đất
nước, không cần đi sâu vào các chi tiết (vì có thể sử dụng những số liệu
và dữ liệu cụ thể trong các dự thảo các báo cáo và trong dự thảo báo
cáo chính trị do ban trù bị đại hội đảng soạn thảo); các dự án của nhóm ad hoc
cần đặc biệt chú ý (a) xác đinh những mục tiêu chiến lược cần đạt được
cho cả giai đoạn cải cách và mở đường thay đổi đất nước, (b) thiết kế
các tổng lộ trình tiến hành, (c) trình bầy các dự án thực hiện những
bước đi đầu tiên của nhiệm kỳ khoá XII… Báo tổng kết và các dự án của
nhóm ad hoc sẽ được trình bầy và thảo luận trong đại hội, phản
biện và so sánh với các văn bản do ban trù bị đại hội soạn thảo, để đại
hội tranh luận và đi tới những kết luận, những quyết định đúng đắn và
tối ưu.
Trong quá trình thảo luận tại đại hội, nên dựa trên quá trình tranh
luận các vấn đề lớn của đất nước và của đảng làm xuất hiện những quan
điểm hay tư duy xuất chúng, như vậy sẽ thuận lợi cho việc tìm người
(nhân tài) để đại hội trực tiếp đề cử, tranh cử và bầu cử riêng cho các
chức vụ tổng bí thư và các uỷ viên bộ chính trị.
Báo cáo và các văn kiện của nhóm ad hoc cũng như của ban trù
bị đại hội cần tranh thủ tối đa những ý kiến xác đáng chắt lọc trong cả
nước trong suốt quá trình chuẩn bị trước khi đưa ra thảo luận tại đại
hội.
Nhóm ad hoc có toàn quyền dự thảo các báo cáo và các dự án
cho những vấn đề lớn, đề xuất những ý kiến về những vấn đề lớn theo nhận
thức và quan điểm của mình, không câu nệ vào bất cứ điều gì – kể cả
hiến pháp, cương lĩnh, điều lệ đảng… Nhóm ad hoc có quyền đề nghị
với đại hội thảo luận và quyết định những vấn đề lớn khác của quốc gia
và của đảng chưa được ban trù bị đại hội đưa vào chương trình nghị sự,
trực tiếp phản biện những vấn đề hay quan điểm trong các văn kiện do ban
trù bị đưa ra đại hội, vân vân... Nhóm ad hoc có quyền và nên
lấy ý kiến rộng rãi, công khai trong cả nước về những vấn đề trọng đại
trước khi đưa ra đại hội thảo luận. Toàn bộ sản phẩm của nhóm ad hoc
mang tính khuyến nghị, đề xuất và phản biện, phục vụ cho tranh luận
trong đại hội, do đó ngoài việc chịu trách nhiệm trước toàn đảng và cả
nước về tinh thần trách nhiệm và tính trung thực của mình, nhóm ad hoc có tính độc lập hoàn toàn. Đại hội kết thúc, nhóm ad hoc coi như làm xong việc được giao và tự giải thể.
Tóm lại, nên có hai luồng chuẩn bị song song độc lập với nhau như vậy cho việc tiến hành đại hội, một bên là luồng của ban trù bị đại hội như hiện nay, một bên là luồng của nhóm ad hoc,
với mục đích làm sáng tỏ các vấn đề, chứ không một chiều đơn thuần lĩnh
hội mọi thứ từ ban trù bị (thực chất là của khoá đương thời) đưa ra để
tiếp thu và quán triệt như xưa nay thường làm, thực hiện tranh luận dân
chủ và đi tới những quyết định xác đáng, công khai hoá trong cả nước hai luồng
chuẩn bị này. Tạo mọi điều kiện cho cả nước theo dõi và tham gia ở mức
tối đa có thể vào quá trình thảo luận các vấn đề tại đại hội, qua đó tạo
ra một tiền lệ quan trọng cho việc thực hiện công khai minh bạch trong
đời sống chính trị của đất nước.
Trừ một số vấn đề đảng vụ, mọi việc đại hội bàn là việc của quốc
gia, đều liên quan mật thiết đến vận mệnh quốc gia, do đó cả nước phải
biết và có quyền có ý kiến của mình; đảng cần tìm ra cách thức để thực
hiện được đầy đủ quyền này của cả nước tại đại hội. Xin lưu ý: Nhân dân
là người chủ đích thực của đất nước, vì vậy đại hội chỉ nên bàn những
vấn đề lớn mở ra phương hướng phát triển của đất nước để sau này kiến
nghị với quốc hội. Theo Hiến pháp, đại hội không có bất kỳ sự uỷ nhiệm
hay uỷ quyền nào của đất nước cho phép quyết định công việc của nhà
nước. Vì vậy đại hội không nên bàn lấn sân sang các nhiệm vụ nhà nước
của quốc hội khoá tới. Nên như vậy để tránh tình trạng quốc hội khoá tới
sẽ chỉ làm cái việc nhắc lại và cụ thể hoá để thực hiện những quyết
định của đại hội XII, qua đó quốc hội khoá tới vô hình trung trở thành
cấp dưới của Bộ Chính trị, đảng mặc nhiên đứng trên Hiến pháp. Xin lưu ý cách làm đại hội kiểu này vi phạm điều 2 khoản 2 trong Hiến pháp “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, vi phạm điều 4 khoản 3 “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Báo chí được phép đưa tin trung thực quá trình diễn tiến của đại
hội, không chịu bất kỳ sự chỉ đạo đạo của cá nhân hay tổ chức nào; đưa
tin sai lệch có dụng ý sẽ bị truy cứu trách nhiệm. Như vậy đại biểu đi
dự đại hội và toàn bộ hoạt động của đại hội nói chung sẽ phải chịu áp
lực và thách thức rất lớn của ống kính báo chí, song điều này là cần
thiết và phải chấp nhận.
Cách tiến hành đại hội như trình bầy trên đòi hỏi phải chọn lọc các
đại biểu có chất lượng đi dư đại hội. Chứ không phải lựa chọn đại biểu
theo cơ cấu, đi dự đại hội chỉ để quán triệt các thứ khoá đương thời bầy
ra và để thực hiện bầu cử theo xắp xếp của khoá đương thời như xưa nay
thường làm.
Tôi xin kiến nghị nhóm ad hoc chỉ có 3 thành viên. Tôi
xin tiến cử Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh và
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh là 3 thành viên nhóm
này, xin tuỳ Bộ Chính trị hay BCHTƯ quyết định và lựa chọn theo thẩm
quyền.
Nhóm ad hoc chỉ nên nhỏ gọn như vậy để làm việc có hiệu quả
và dễ quyết đoán. Theo yêu cầu công việc đòi hỏi, nhóm ad hoc có quyền
trực tiếp huy động nhân lực, mọi nguồn lực vật chất kỹ thuật khác và tài
chính trong cả nước giúp làm mọi việc, để nhóm thực hiện được nhiệm vụ
của mình.
Lý do tôi kiến nghị nhóm ad hoc gồm 3 thành viên này là vì
theo hiểu biết của mình, tôi đánh giá đấy là 3 người có bề dầy kiến thức
và kinh nghiệm thực tế cần thiết cho nhiệm vụ của nhóm ad hoc,
có nhiệt huyết thay đổi đất nước. Cả 3 người này đều là uỷ viên BCHTƯ
đảng, không có mảy may bất kể cái gì để có thể nghi ngờ tiếng nói của họ
là của các thế lực thù địch theo tiêu chuẩn đo lường của đội ngũ dư
luận viên và của báo chí “lề phải”. Chỉ có vấn đề 3 người này dám hay
không dám trung thực với sự thật mà thôi, việc này cả nước và đại hội sẽ
đánh giá khi vào cuộc. Hiểu biết như vậy, tôi xin tiến cử như vậy, có
thể đảng sẽ tiến cử được những người giỏi hơn.
Trong công khai minh bạch đối với cả nước, nếu nhóm ad hoc
thành công ở đại hội XII, hầu như chắc chắn dù mạnh yếu thế nào đấy sẽ
là một cú hích đầu tiên của quá trình đổi đời đảng này và đất nước này.
Nếu thất bại – giả thử vì năng lực và phẩm chất nhóm ad hoc không
như mong đợi, hay vì phản ứng bác bỏ quyết liệt của đại hội…, cả nước
sẽ thấy rõ đảng đang ở đâu, đất nước này đang làm sao, từng người của
đất nước sẽ rút ra được kết luận cho riêng mình.
Việc chấp nhận phương án có một nhóm ad hoc như thế sẽ báo
hiệu đại hội làm việc trên cơ sở thực sự cầu thị và có tranh luận dân
chủ, có dũng khí đổi mới đảng, tạo ra không khí cởi mở trong cả nước,
rất có lợi cho đảng và cho đất nước. Nếu đề xuất về lập nhóm ad hoc bị
bác bỏ và không có một phương án cải tiến tương tự nào thay thế, nghĩa
là nếu vẫn tiến hành đại hội theo đường mòn lâu nay, có lẽ con số “99%”
nêu bên trên (phần III.2., tr 17) sẽ có xác suất rất cao!..
*
Thay lời kết: Hãy cùng nhau nỗ lực khai phá những bước đi đầu tiên!
Trong âm hưởng của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm nào, giữa những
ngày này chúng tôi gặp nhau hàn huyên và trò chuyện về nước non. Khi bàn
về tình hình đất nước hôm nay, nhà thơ Nguyễn Duy bật đứng lên như bị
dồn nén từ bên trong, anh đọc cho chúng tôi nghe bài thơ “Nhìn từ xa… Tổ
quốc!”[12].
Thơ viết năm 1988, ngồi nghe mà nhiều chuyện vẫn cứ ngỡ đang là hôm
nay… Trong lòng đau đớn tự hỏi: Tổ quốc chúng ta về nhiều mặt vẫn đang
đứng im một chỗ, hay là đang đi giật lùi so với thời gian? Cái đang đi
giật lùi hiển hiện này phải chăng đang ngoan cố kéo lùi tất cả?!..…
“Ai?”… Nỗi đau về sự trì trệ của đất nước và sự lộng hành của tha
hoá hôm nay quặn lên câu hỏi truy tìm thủ phạm. Hành trình truy tìm
xuyên thế kỷ này hôm nay vẫn tiếp tục. Nguyễn Duy đã đưa ra nhiều cái
“Ai?" để mổ xẻ. Nguyễn Duy đã tìm được tới cái “Ai?” cuối cùng đang góp
phần quyết định kéo lùi tất cả: Nỗi sợ trong mỗi chúng ta!
Dù có sao đừng khoanh tay khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Vâng, để đổi đời chính chúng ta và cả đất nước, việc đầu tiên là mỗi
người phải vượt lên nỗi sợ của chính mình. Hãy bắt đầu từ nói thật và
đòi chỉ nói thật!.. Đây là bước đi đầu tiên của mọi bước đi đầu tiên. Có
gan làm được như thế, cuộc sống sẽ mách bảo chúng ta những bước đi
tiếp. Bản thân tôi cũng đang cố gắng như vậy. Đơn giản vì không thể há
miệng chờ sung rụng, càng không thể chờ được quyền lực bố thí!
Sự thật là đất nước đang lâm nguy chưa từng có – trước hết từ bên
trong, hoạ bành trướng tôi không sợ bằng. Đụng vào sửa chữa bất cứ vấn
đề gì cho đến nơi đến chốn cũng có thể dẫn đến sụp đổ tất cả, còn hơn cả
kiếm củi ba năm thiêu một giờ!.. Hàng thập kỷ nay sự tha hoá của quyền
lực đã lên tới đỉnh điểm: Sẵn sàng mất tất cả nhưng giữ đến cùng chế độ!
Nhưng nếu duy trì nguyên trạng, thì èo uột và không thể tồn tại bên
cạnh Trung Quốc. Cái ngu dốt và cái sợ đang làm phức tạp thêm tình trạng
tiến thoái lưỡng nan này.
Đất nước, và tất cả mỗi chúng ta – kẻ cai trị cũng như người bị cai
trị - chỉ có một lối thoát: Mỗi người hãy vượt lên nỗi sợ của chính
mình! Kẻ cai trị hãy vượt lên nỗi sợ mất quyền lực và lo bị trừng trị.
Người bị cai trị hãy vượt lên nỗi sợ bị đàn áp![13]
Bởi vì không phải kẻ thù từ bên ngoài, mà chính cái sợ này sâu thẳm bên
trong mỗi chúng ta đang bịt mắt chúng ta, tước vũ khí chúng ta, sui
khiến chúng ta hành động theo bản năng mù quáng và bầy đàn.
Chính nỗi sợ trong mỗi chúng ta như thế giờ đây là thứ cỏ khô, có
thể bất cứ lúc nào bất giác bắt lửa đốt rụi đất nước, thiêu sống người
tốt cũng như kẻ xấu! Chính vì có nỗi sợ trong mỗi chúng ta như thế, tất
cả chúng ta đang bị giam hãm trong sự thấp hèn riêng, và qua đó kéo dài
mãi cái thấp hèn chung đang giam hãm cả nước. Mỗi người chúng ta phải
vượt lên nỗi sợ này trong chính mình như thế, để tất cả cùng nhau không
phân biệt một ai lựa chọn sự đổi đời cho tổ quốc có chỗ đứng cho mỗi
chúng ta, với tính cách là con người tự do! Một tổ quốc như thế, chính
là tổ quốc trong tim mỗi chúng ta! Đó thực sự là tổ quốc của chúng ta!
Có một tổ quốc như thế, mỗi chúng ta sẽ có cái quý giá nhất và đáng sống
nhất trên đời này: Tự do!
Đất nước của con người tự do như thế, sẽ là bất khả xâm phạm đối với
bất kỳ kẻ thù nào. Đất nước của con người tự do như thế, sẽ có chỗ đứng
xứng đáng trong hàng ngũ văn minh nhân loại.
Đoàn kết, hoà giải, tổ quốc trên hết, để cùng nhau đổi đời chính
mình và đổi đời đất nước. Đấy phải là sự lựa chọn của tất cả chúng ta
hôm nay cho tổ quốc! Đã đến lúc phải trả lại hai chữ “chúng ta” cho tổ quốc trong tim mình!
Hà Nội, Tháng Tám 2014.