Lê Thị Minh Hà - Vợ anh Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm)
Về việc Cơ quan an ninh điều tra khám xét, bắt, tạm giam không
đúng pháp luật đối với chồng tôi là anh Nguyễn Hữu Vinh (mọi người
thường gọi là anh Ba Sàm)
Anh Nguyễn Hữu Vinh (mọi người thường gọi là anh Ba Sàm
Kính gửi:
- Ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước;
-Ông Trần Đại Quang - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an;
- Ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng ban nội chính TW;
- Ông Nguyễn Hòa Bình – Viện trưởng Viện KSND Tối cao;
- Ông Nguyễn Văn Hiện – Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp QH.
Tôi là Lê Thị Minh Hà; sinh năm 1958; trú tại: 5/2/4D phố Đặng Văn
Ngữ, P. Trung Tự, Q. Đống Đa – Hà Nội, là vợ của anh Nguyễn Hữu Vinh
đang bị Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam theo
Điều 258 Bộ Luật hình sự tội: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm
lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Tôi
đã có đơn khiếu nại gửi Cơ quan có thẩm quyền từ ngày 05/06/2014 nhưng
đến nay chưa nhận được sự trả lời của Quý vị.
Theo thông báo của Cơ quan an ninh điều tra thì việc bắt, khám xét
chồng tôi trong trường hợp khẩn cấp. Tôi đối chiếu với quy định của pháp
luật thì việc khám, xét đó là không tuân thủ pháp luật. Cụ thể là:
Thứ nhất: Việc bắt chồng tôi trong trường hợp khẩn cấp:
Điều 81 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp như sau:
1. Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính
mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét
thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người
bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường
hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật
này.
4. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho
Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc
bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định
tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp
gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và
tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết
định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho
người bị bắt.
Như vậy, căn cứ vào thực tế vụ việc mà Cơ quan an ninh điều tra gán
gép cho chồng tôi thì không nằm bất cứ một điểm nào trong điều trên để
bắt khẩn cấp, tôi khiếu nại nhưng Cơ quan an ninh điều tra cũng không
giải thích, không đưa ra bằng chứng chứng minh. Đến giờ phút này tôi và
gia đình cũng chưa nhận được bất kỳ thông tin nào về việc Viện Kiểm sát
có phê chuẩn lệnh bắt đó hay không.
Mọi hoạt động của Cơ quan bảo vệ pháp luật liên quan đến quyền con
người phải quán triệt nghiêm túc đầy đủ, chính xác các văn bản pháp luật
nhưng trong trường hợp của chồng tôi thì Cơ quan an ninh điều tra bất
chấp các quy định; chính họ tự đưa ra quyền của mình trên cả pháp luật.
Thứ hai: Quy định của pháp luật về khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản:
Vấn đề này được quy định rất cụ thể tại Chương XII (Từ Điều 140 đến 149 Bộ Luật tố tụng hình sự).
Căn cứ vào các quy định trên thì việc khám xét của Cơ quan an ninh
điều tra trong trường hợp đối với chồng tôi cũng hoàn toàn trái với quy
định của pháp luật; đến nay gia đình tôi cũng chưa nhận được việc Viện
Kiểm sát đã phê chuẩn lệnh khám xét này hay chưa?
Đặc biệt là quy định tại Điều 145 về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét: quy địn như sau:
“Khi khám xét, Điều tra viên được tạm giữ đồ vật là vật chứng
và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Đối với đồ vật thuộc loại
cấm tàng trữ, lưu hành thì phải thu giữ và chuyển ngay cho cơ quan quản
lý có thẩm quyền. Trong trường hợp cần thiết phải niêm phong thì tiến
hành trước mặt chủ đồ vật hoặc đại diện gia đình, đại diện chính quyền
và người chứng kiến.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành khám xét phải được
lập biên bản. Biên bản tạm giữ được lập thành bốn bản: một bản giao cho
người chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý đồ vật,
tài liệu bị tạm giữ”.
Gia đình tôi không được Cơ quan an ninh điều tra khi khám xét, thu
giữ đồ vật cung cấp cho gia đình một bản. Việc thu giữ những gì? Có tiền
bạc và những vật đồ dùng quý giá khác không? Việc mở niêm phong những
đồ vật bị thu giữ có sự chứng kiến đầy đủ của những người tiến hành khám
xét và ký niêm phong không? Những vấn đề nêu trên tôi đã khiếu nại, yêu
cầu trả lời nhưng đang bị làm ngơ hoặc bỏ qua hoặc che giấu cho sự sai
phạm.
Bằng đơn khiếu nại này, tôi đề nghị các Cơ quan có thẩm quyền trả
lời theo đúng quy định tại Chương XXXV (khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự) của Bộ Luật tố tụng hình sự; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo;... .
đừng để cho người dân kêu than mà pháp luật chỉ để trên giấy để trang
trí, đánh bóng với dân còn thực chất là bị vô hiệu trên thực tế.
Xin cảm ơn và gửi lời chào trân trọng.
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2014
Nơi nhận:
- Thường trực Ban bí thư TW Đảng;
- Ủy ban thường vụ QH;
- Thường trực cải cách Tư pháp (VPTW Đảng);
- Ông Tô Lâm – Thứ trưởng BCA;
- Tổng Cục trưởng Tổng Cục an ninh I,II
- A83, A87, A92 Bộ Công an;
- Luật sư Hà Huy Sơn;
- Luật sư Trịnh Minh Tân;
- Luật sư Nguyễn Hà Luân;
- Lưu
NGƯỜI LÀM ĐƠN
LÊ THỊ MINH HÀ